Thursday, October 1, 2020

Ai là tác giả của "36 kế"

Tuấn Tú sưu tầm 

Mới đây, người ta đã phát hiện bộ thẻ ngọc “ba mươi sáu kế” ở thành phố Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc). Phát hiện này đã làm rõ những vấn đề liên quan đến tác phẩm nổi tiếng này. “Ba mươi sáu kế” đã được in thành sách và phát hành đã lâu, những kế sách như “điệu hổ ly sơn”, “mỹ nhân kế”, “khổ nhục kế”, “rút lui là thượng sách”… vẫn thường được nhiều người nhắc đến, nhưng lâu nay vẫn có những cuộc tranh luận trong giới học thuật Trung Quốc về niên đại và tác giả của “Ba mươi sáu kế”.
Tam Thập Lục Kế (三十六計, Tam thập lục kế; hay 三十六策, Tam thập lục sách) 

Cuối cùng, phát hiện này cho phép người ta nói lên tác phẩm “Ba mươi sáu kế” ra đời vào đời Tùy. Tác giả là một võ tướng nổi tiếng thời Nam Tống tên Đàn Đạo Tế chứ không phải được sáng tác vào cuối triều Minh - đầu triều Thanh như quan điểm của một số học giả trước đây. 

Trong hội thảo diễn ra gần đây tại tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) với chủ đề “Sách thẻ ngọc ba mươi sáu kế đời Tùy”, Hội nghiên cứu ngọc khí cổ Trung Quốc, Hội nghiên cứu Tôn Tử tỉnh Sơn Đông, Trung tâm giao lưu nghiên cứu binh pháp Tôn Tử quốc tế tỉnh Sơn Đông, Hội nghị hiệp thương chính trị (Chính Hiệp) thành phố Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông đều chính thức chỉ rõ tác giả của “Ba mươi sáu kế” là Đàn Đạo Tế, người xã Kim, tỉnh Sơn Đông, một võ tướng nổi tiếng thời Nam Tống. 

Trong hội thảo này, các học giả và các đại biểu tham gia đã tận mắt nhìn thấy thẻ ngọc “Ba mươi sáu kế” đời Tùy. Các thẻ đều khắc chữ tiểu triện, thẻ đầu tiên ghi 4 chữ “Tam thập lục kế” (Ba mươi sáu kế), thẻ cuối khắc câu: “Khai Hoàng thập lục niên thập nhất nguyệt nhất nhật, Hà Chấn khắc” (ngày 1 tháng 11 năm Khai Hoàng thứ 16), Khai Hoàng là niên hiệu đầu tiên của Văn Đế (Dương Kiên), người sáng lập nhà Tùy vào năm 581. Sau khi các nhà nghiên cứu tham gia hội thảo giám định hiện vật và ký vào văn bản xác nhận sách thẻ ngọc “Ba mươi sáu kế” có nội dung chân thực, bộ thẻ ngọc này có giá trị rất cao đối với những người nghiên cứu văn vật và lịch sử văn hóa Trung Quốc. 

Quá trình phát hiện và thu thập bộ thẻ ngọc “Ba mươi sáu kế” cũng rất gian nan. Ở thành phố Tế Ninh có một học giả họ Quách (ông không muốn công khai danh tính) đã tìm mua những thẻ ngọc này từ năm 2003. Các thẻ ngọc có chữ cổ này bị phân tán trong nhiều gia đình, một số thẻ đã bị gãy. Ông đã dày công đi nhiều nơi để mua từng chiếc thẻ rồi kết lại cho đủ bộ. Ban đầu, ông không đọc được tất cả những chữ cổ nhưng cảm thấy những chiếc thẻ ngọc này là cổ vật có giá trị cần phải lưu giữ, sau khi đã có trong tay cổ vật này, ông bỏ ra khá nhiều thời gian để sắp xếp lại và phát hiện 4 chữ khắc rất rõ và đẹp trên thẻ là “Tam thập lục kế”. 

Năm 2008, để giám định chất ngọc của những chiếc thẻ, ông đã mở Trung tâm giám địch châu báu thành phố Tế Ninh, các chuyên gia ở đó đều xác định các thẻ có chất ngọc. Kết luận này cũng giống kết quả giám định trước đây của các chuyên gia giám định văn vật Bắc Kinh và Nam Kinh. Sau đó, ông đã bỏ ra 2 năm để nghiên cứu những chữ khắc trên các thẻ ngọc. Cuối cùng, ông liên hệ với Hội nghiên cứu Tôn Tử tỉnh Sơn Đông, mời được nhiều chuyên gia tiếp tục giám định bộ thẻ ngọc “Ba mươi sáu kế”. 

Phát hiện này có giá trị rất lớn đối với việc nghiên cứu văn vật cổ đại Trung Quốc. Trung Quốc có hai binh thư cổ đại nổi tiếng là “Binh pháp Tôn Tử”, binh thư mang tính chiến lược và “Ba mươi sáu kế”, binh thư mang tính chiến thuật. Nhưng trước đây, các nhà nghiên cứu chưa thống nhất ý kiến về tác giả của “Ba mươi sáu kế”. Có học giả cho đây là tác phẩm được viết vào cuối triều Minh - đầu triều Thanh. Giờ đây, hiện vật “Ba mươi sáu kế” bằng thẻ ngọc lưu hành vào đời Tùy đã làm sáng tỏ hai vấn đề liên quan đến tác phẩm này: một là tác giả chính là võ tướng Đàn Đạo Tế nổi tiếng; hai là tác phẩm này ra đời từ đầu triều Tùy (năm 581 - năm 619), sớm hơn trên 1000 năm so với thời điểm cuối triều Minh - đầu triều Thanh. 

“Ba mươi sáu kế” xuất hiện sớm nhất trong bộ sách “Nam Tề thư Vương kinh tắc truyện trong đó có đoạn: “Đàn công tam thập lục sách, tẩu thị thượng kế” (Trong ba mươi sáu sách của Đàn Đạo Tế, rút lui là thượng sách). Đàn Đạo Tế đã nghiên cứu và tổng hợp những bài học từ những cuộc nội chiến ở Trung Quốc, nhất là thời Xuân thu - Chiến quốc, cũng như những cuộc chiến kéo dài suốt 300 năm vào thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều và dựa vào kinh nghiệm tham gia chinh chiến của bản thân để rút ra 36 kế sách nổi tiếng hay 36 chiến thuật xét đoán trong các tình huống để giành thắng lợi. 

“Rút lui là thượng sách” là kế thứ 36. Nhưng rút lui ở đây không có nghĩa là tháo chạy mà là rút lui để chờ thời cơ tấn công về sau. Trong tình hình quân địch hoàn toàn có ưu thế, quân ta không thể giành thắng lợi, để tránh đối đầu với địch, chỉ có 3 cách: đầu hàng, giảng hoà hoặc rút lui. Đầu hàng là thất bại hoàn toàn, giảng hoà là thất bại một nửa, còn rút lui thì không thể xem là thất bại. Rút lui có thể chuyển bại thành thắng. Mục đích của rút lui là nhằm tránh những tổn thất khi đối đầu với địch. Chủ động rút lui còn có thể dụ địch, đều động địch, tạo thời cơ thuận lợi để tấn công địch. Nhưng rút lui lúc nào và rút lui như thế nào đòi hỏi người chỉ huy phải có bản lĩnh. 

Vào thời Xuân thu (năm 722 - năm 481 trước Công nguyên), nước Sở rất mạnh, tướng Sở là Tử Ngọc đưa quân tấn công nước Tấn. Sở Vương còn ép 4 nước nhỏ gồm Trần, Thái, Trịnh, Hứa đưa quân phối hợp với quân Sở. Lúc này, Tấn Văn Công vừa đánh hạ nước Tào, một nước nhỏ phụ thuộc nước Sở, biết trước cuộc chiến giữa Tấn và Sở không thể tránh khỏi. Tử Ngọc đưa quân ào ạt tiến vào nước Tào. Tấn Văn Công phân tích tình hình, thấy giành thắng lợi trong cuộc chiến này là rất khó. Trong tình hình Sở mạnh Tấn yếu, ông quyết định tạm thời rút lui để tránh đạo quân hùng mạnh của Sở. Tấn Văn Công giả vờ nói: “Trước đây, tôi phải chạy trốn khỏi nước Tấn, Sở tiên đế đã dùng lễ để đối đãi với tôi. Tôi đã cùng ông hứa với nhau là sau này nếu tôi trở về nước Tấn thì hai nước Tấn, Sở sẽ thân thiện với nhau. Nếu bất đắc dĩ hai nước phải giao chiến thì quân của Tấn sẽ chủ động rút lui 3 xá (thời cổ ở Trung Quốc, mỗi xá bằng 30 dặm). Nay Tử Ngọc đưa quân đánh Tấn, để giữ lời hứa năm xưa, quân Tấn sẽ rút lui 3 xá”. 

Quân Tấn đã rút lui 90 dặm đến thành Bộc gần biên giới nước Tấn; dàn thế trận gần sông Hoàng Hà, dựa vào Thái Hành sơn. Tấn Văn Công còn phái người đến nước Tần và nước Tề để xin trợ giúp. Tử Ngọc đưa quân đến thành Bộc; Tấn Văn Công đã bày sẵn thế trận. Tấn Văn Công biết rất rõ Sở có 3 dạng quân: tả, trung, hữu, trong đó quân hữu bạc nhược nhất là quân hỗn hợp bị bắt ép của nước Trần và nước Thái, không có ý chí chiến đấu. Tử Ngọc lệnh cho quân tả, hữu tiến lên trước, quân trung tiến lên sau. Quân hữu trực tiếp đánh thốc vào quân Tấn, quân Tấn đột nhiên rút lui, các tướng lĩnh của quân Trần, Thái cho rằng quân Tấn sợ hãi mà bỏ chạy nên truy đuổi. Một bộ phận của quân Tấn đột nhiên tách ra và đồng loạt trùm lên những con ngựa kéo xe những bộ da hổ đã chuẩn bị sẵn. Những con ngựa chiến của quân Trần, quân Thái tưởng đó là hổ thật, hoảng sợ quay đầu chạy loạn xạ, kỵ binh không tài nào khống chế được đành phải theo chúng. Quân hữu của Sở đại bại. 

Tấn Văn Công phái quân sĩ giả làm quân của Trần, Thái đến gặp Tử Ngọc báo tin chiến thắng: “Quân hữu đã thắng, nguyên soái nên nhanh chóng tiến quân”. Tử Ngọc lên xe nhìn thấy phía sau quân Tấn bụi khói mù mịt, liền cười to và nói: “Quân Tấn không thể tiến đánh”. Thực ra, đó là kế dụ địch của quân Tấn : họ buộc những cành cây phía sau những con ngựa rồi cho chúng chạy đi chạy lại làm cho bụi bay mù mịt. Tử Ngọc liền thúc quân tiến lên phía trước. Quân Tấn giả vờ rút lui. Cuối cùng, quân Sở đã rơi vào vòng vây của quân Tấn và bị tiêu diệt hoàn toàn. Chờ đến lúc Tử Ngọc đưa quân đến, 3 mũi quân Tấn hợp lực, vòng vây quân Tấn càng siết chặt. Lúc này Tử Ngọc mới phát hiện, quân hữu và quân tả của Sở đã bị tiêu diệt và ông đang rơi vào vòng vây của quân Tấn, cần phải thoát thân. Tuy rằng sau đó Tử Ngọc được lính hộ vệ đưa chạy thoát khỏi vòng vây, quân Sở đã bị thiệt hại nặng nề. 

Tỉnh Sơn Đông có nhiều binh thư nhất Tỉnh Sơn Đông có nhiều binh thư của Trung Quốc cổ đại. Giới nghiên cứu binh thư Trung Quốc có câu: “Binh học thế giới nhìn Trung Quốc, Trung Quốc nhìn Tề, Lỗ (nước Tề, nước Lỗ cổ, nay là tỉnh Sơn Đông). Vào thời Tiên Tần, những cuốn binh thư có giá trị nhất phần lớn đều có xuất xứ từ nước Tề, nước Lỗ. 

Trong 5 binh thư Tiên Tần trong “Ngũ kinh thất thư” có 3 loại thuộc các binh gia nước Tề: đó là “Tư Mã pháp”, “Tôn Tử binh pháp” và “Lục Thao” (thao có nghĩa là phép dùng binh). Ngoài ra, theo “Hán Thư nghệ văn chí, binh thư lược”, nước Tề còn có các binh thư có giá trị như “Tề Tôn Tử” gồm 80 thiên, “Tử Vãn Tử” gồm 35 thiên. Trong “Quản Tử”, tư tưởng quân sự chiếm một phần quan trọng, chẳng hạn như “Thất pháp”, “Địa đồ”, “Thế”, “Cửu biến” v.v. 

Binh thư của nước Lỗ không bằng nước Tề, nhưng cũng có những đóng góp có giá trị, chẳng hạn như quyển “Ngô Tử” về trị quân dùng binh sử dụng những phạm trù quan trọng của Nho gia như “nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “đức”, “giáo”, thể hiện bản sắc văn hóa của nước Lỗ. Hội nghiên cứu Tôn Tử tỉnh Sơn Đông và Trung tâm nghiên cứu binh học Tề, Lỗ vừa cho ra mắt bộ “Tề Lỗ binh điển” gồm “Tôn Tử binh pháp”, “Ngô Tử binh pháp”, “Tôn Tẫn” binh pháp”, “Tư Mã pháp”, “Lục Thao”, “Quản Tử luận binh”, “Mặc Tử luận binh”, “Khổng Tử luận binh”, “Gia Cát Lượng luận binh”, khi tái bản sẽ đưa “Tam thập lục kế” vào. 

Theo các nhà nghiên cứu, con số 36 chỉ là một biểu tượng rút từ Dịch kinh nhằm để chỉ số lượng nhiều. Nó như là một điển cố, rồi được người đời sau viết sách thêm thắt vào cho đủ 36 kế.

Liệt kê " Tam Thập Lục Kế "

Thắng chiến kế

1. Man thiên quá hải (瞞天過海) Giấu trời qua biển, lợi dụng sương mù để lẩn trốn .

Gia Cát Lượng dùng một biến thể là kế Thuyền cỏ mượn tên để lừa lấy tên của Tào Tháo trong trận Xích Bích. 

2. Vây Ngụy cứu Triệu (圍魏救趙) Tránh nơi địch mạnh nhất, đánh vào hiểm yếu khiến địch phải rút về 

Thời Chiến Quốc, Bàng Quyên đem quân nước Ngụy tấn công nước Triệu rất gấp. Tôn Tẫn, bạn học cũ của Bàng Quyên, bày kế cho nước Tề đem quân vây nước Ngụy, y rằng Bàng Quyên phải kéo quân về giải vây, nước Triệu được cứu. 

3. Tá đao sát nhân (借刀殺人) Mượn dao giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù 

Thời Tam Quốc Tào Tháo ghét Nễ Hành tính tình ương bướng không chịu khuất phục bèn cử ông ta đến chầu Lưu Biểu, cốt là để Lưu Biểu ghen ghét mà giết đi, Tháo không mang danh hại người tài. Lưu Biểu cũng không chịu nổi Nễ Hành, sử dụng chính kế của Tào Tháo, cử Nễ Hành sang hầu Hoàng Tổ. Nễ Hành miệng không ngưng chê bai, cuối cùng cũng bị Hoàng Tổ chém. 

4. Dĩ dật đãi lao (以逸待勞) Lấy nhàn để đối phó với mỏi mệt 

Trong Trận Phì Thủy, Phù Kiên đem một triệu quân tấn công nhà Tấn. Tuy nhiên Tạ An, Tạ Huyền nắm vững tinh thần Dĩ dật đãi lao nên dùng quân Tấn ít hơn nhưng tinh nhuệ, có trật tự, được nghỉ ngơi, đánh cho Phù Kiên đại bại. 

5. Sấn hỏa đả kiếp (趁火打劫) Tranh thủ nhà cháy mà đánh cướp, lợi dụng lửa để hành động 

Trước trận Xích Bích, Lưu Bị chỉ là một lãnh chúa nhỏ nắm trong tay một thành Tương Dương người thưa quân ít. Lợi dụng thất bại của Tào Tháo ở Xích Bích, Lưu Bị tung quân chiếm Kinh Châu rồi từ đó phát triển thế lực ngang bằng với Tào Tháo, Tôn Quyền. 

6.Thanh Đông kích Tây (聲東擊西) Dương Đông kích Tây, vờ đánh một hướng nhưng thực chất là đánh hướng ngược lại 

Sau trận Xích Bích, Gia Cát Lượng cho quân đốt lửa trong đường hẻm Hoa Dung để Tào Tháo nghi ngờ rằng quân Lưu Bị dùng kế dương Đông kích Tây rồi chọn chính đường Hoa Dung để rơi vào bẫy của quân Quan Vũ.

Gia Cát Lượng Khổng Minh 

Địch chiến kế

7. Vô trung sinh hữu (無中生有) Không có mà làm thành có 

Trong Trận Phì Thủy, để khỏa lấp sự chênh lệch lớn về quân số, Tạ An, Tạ Huyền tung quân Tấn tấn công sớm lực lượng quân Tần của Phù Kiên để tạo ra cảm giác rằng quân Tấn đông đảo không kém gì quân Tần, lại gửi thư cho Phù Kiên để nghị lui quân Tần để Tấn sang sông, quyết chiến một trận. Quân Tần trong khi lui quân vì hỗn loạn nên đội hình tan rã, giẫm đạp lên nhau mà chết rất nhiều (Phong thanh hạc lệ, Thảo mộc giai binh: tưởng tiếng gió, tiếng hạc, cỏ cây là quân Tấn đang tiến công). 

8. Ám độ Trần Thương (暗渡陳倉) Chọn con đường, cách thức tấn công mà không ai nghĩ tới 

Thời Hán-Sở tranh hùng, Lưu Bang bị Hạng Vũ ép vào đóng quân trong vùng Ba Thục hẻo lánh khó ra được Trung Nguyên. Hàn Tín bèn bày kế vờ sửa đường sạn đạo nhưng lại ngầm dẫn quân đi đường núi hiểm trở để đánh úp ải Trần Thương, mở đường ra Trung Nguyên cho quân Hán. 

9. Cách ngạn quan hỏa (隔岸觀火) Đứng cách bờ để xem lửa cháy, để yên cho kẻ địch tự rối loạn 

Sau Trận Quan Độ, Viên Thiệu đại bại trước Tào Tháo rồi chẳng bao lâu qua đời. Các con của Viên Thiệu là Viên Thượng, Viên Hy chạy tới nương nhờ Công Tôn Khang. Có người khuyên Tào Tháo thừa thắng tấn công để bắt nốt Viên Thượng, Viên Khang, Tào Tháo cho rằng không cần vội vì sớm muộn gì trong nội bộ địch cũng có loạn và rút quân. Quả nhiên Công Tôn Khang thấy Tào Tháo rút quân bèn chém đầu Viên Thượng, Viên Hy và xin hàng Tào Tháo. Ngày nay thường thấy là kế 'Tự diễn biến'. 

10. Tiếu lý tàng đao (笑裡藏刀) Cười nụ giấu dao, lập mưu kín kẽ không để kẻ địch biết 

Tể tướng của Đường Huyền Tông là Lý Lâm Phủ có bề ngoài và xử sự hết sức hòa nhã, thân thiện nhưng thực chất lại là người cực kì nham hiểm, dùng mọi thủ đoạn để triệt hạ các đối thủ chính trị khác. Hành động của Lý Lâm Phủ về sau được mô tả bằng câu thành ngữ "Miệng nam mô, bụng bồ dao găm" ("Khẩu mật phúc kiếm", 口蜜腹剑).

11. Lý đại đào cương (李代桃僵) Mận chết thay đào, đưa người khác ra thế thân gánh vác tai họa cho mình 

Thời Tam Quốc, Tào Tháo đi đánh trận xa nhà mang theo số lượng lớn quân sĩ. Quân lương dần cạn kệt, lòng quân dao động, hỗn loạn. Tào Tháo bèn dùng kế mượn cái đầu của quan thủ kho lương với lí do tham ô quân nhu nhằm yên lòng quân. Nhưng thực chất đó là kế hình nhân thế mạng. 

12. Thuận thủ khiên dương (順手牽羊) Thuận tay bắt dê, phải tranh thủ nắm lấy cơ hội nằm trong tầm tay 

Thời Tam Quốc Lưu Chương là thứ sử Ích Châu nhưng lại có tính tình nhu nhược. Gia Cát Lượng bèn khuyên Lưu Bị tận dụng mối quan hệ họ hàng xa để làm quen với Lưu Chương để rồi từ đó "thuận tay bắt dê" chiếm lấy Ích Châu làm chỗ dựa.

Công chiến kế

13. Đả thảo kinh xà (打草驚蛇) Đánh cỏ động rắn, tấn công vào xung quanh kẻ địch khiến chúng hoảng sợ mà lộ diện 

Nhà Tống hẹn với Chiêm Thành chia hai mặt giáp công Đại Việt. Chiêm Thành đồng ý. Tướng Lý Thường Kiệt liền đem quân tấn công, phá huỷ kho tàng ba châu của nhà Tống làm Chiêm Thành khiếp sợ, không dám can dự vào chiến tranh Tống - Việt lần 2. 

14. Tá thi hoàn hồn (借屍還魂) Mượn xác trả hồn, mượn thân xác khác để đưa hồn về 

Thời Tam Quốc quân Tào Ngụy nhờ tài năng chỉ huy của Chung Hội và Đặng Ngải mà chiếm gần như toàn bộ nước Thục Hán. Đại tướng nhà Thục là Khương Duy bèn giả đầu hàng với hy vọng mượn xác trả hồn, lợi dụng quân Ngụy để khôi phục đất nước. Tuy nhiên mưu kế của Khương Duy không thành, ông bị giết còn nước Thục hoàn toàn mất về tay Tào Ngụy. 

15. Điệu hổ ly sơn (調虎離山) Lừa cho hổ ra khỏi núi, khiến kẻ địch ra khỏi nơi ẩn nấp để dễ bề tấn công

Thời Tam Quốc Trương Phi được lệnh dẫn quân vào Ích Châu để hỗ trợ Lưu Bị. Trên đường tiến quân Trương Phi bị Nghiêm Nhan lợi dụng địa thế hiểm yếu để ngồi trong thành phòng thủ. Trương Phi bèn lập kế giả say dụ Nghiêm Nhan dẫn quân ra ngoài thành và đánh bại. 

16. Dục cầm cố túng (欲擒故縱) Muốn bắt thì phải thả 

Thời Tam Quốc, Mạnh Hoạch làm phản khiến Thục Hán bất ổn. Để thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt, bảy lần thả (thất cầm thất túng, 七擒七纵) Mạnh Hoạch khiến Mạnh Hoạch đội ơn mà không dám làm phản nữa. Tào Tháo muốn dùng Quan Vũ để làm dũng tướng cho mình đã cấp cho Quan Vũ ngựa Xích Thố để Quan Vũ lên đường tìm huynh đệ Lưu Bị và Trương Phi; nhưng Quan Vũ chỉ cưỡi ngựa đi một đoạn bèn quay lại trở về với Tào Tháo để nguyện ra trận chiến đấu trả ơn cho Tào Tháo. 

17. Phao chuyên dẫn ngọc (拋磚引玉) Ném gạch đưa ngọc đến, đưa miếng nhỏ ra để dụ địch nhằm đạt cái lợi lớn hơn 

Trong chiến dịch Chi Lăng năm 1428, quân Lam Sơn đã giả thua liền 3 trận để tướng Minh là Liễu Thăng chủ quan rồi dùng phục binh giết chết ông này. 

18. Cầm tặc cầm vương (擒賊擒王) Bắt giặc bắt vua 

Vua Lê Hoàn chống quân Tống lần thứ nhất năm 981. Vua dùng kế giả hàng rồi cho phục binh bắt sống chủ tướng Hầu Nhân Bảo. Quân Tống mất chỉ huy tan rã nhanh chóng.

Tào Tháo

Hỗn chiến kế

19. Phủ để trừu tân (釜底抽薪) Rút củi đáy nồi, đánh tiêu hao hậu cần để làm quân địch dần phải thua 

Trong trận Chi Lăng-Xương Giang, nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi cho rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan. 

20. Hỗn thủy mạc ngư (混水摸魚)Đục nước bắt cá, lợi dụng tình thế để ra tay đạt mục đích 

Trong Trận Phì Thủy, sau khi nhận thấy quân Tần rối loạn sau đợt tấn công phủ đầu của quân Tấn, Tạ Huyền quyết định tận dụng thời cơ tung toàn lực tấn công, kết quả là quân Tần đại bại dù đông quân gấp 10 lần quân Tấn.

21. Kim thiền thoát xác (金蟬脫殼) Ve sầu lột xác, sử dụng bộ dạng mới để làm quân địch bất ngờ trở tay không kịp 

Trong chiến tranh chống Nguyên năm 1286, quân Trần trong khi triệt thoái đã cho thuyền rồng giả chèo ra biển để dụ quân giặc đuổi theo, trong khi đó vua Trần xuôi vào Nam tập hợp binh lực phản công. 

22. Quan môn tróc tặc (關門捉賊) Đóng cửa bắt giặc, dồn giặc vào thế bí không thể chạy thoát 

Thời Chiến Quốc, Tôn Tẫn và Bàng Quyên ban đầu là hai học trò cùng thầy Quỷ Cốc tử, nhưng sau đó trở thành cừu thù và là địch thủ chính của nhau trên chiến trường. Trong trận chiến quyết định, Tôn Tẫn sai quân Tề dùng kế rút bếp để lừa Bàng Quyên và quân Ngụy tiến sâu vào đường hẻm Mã Lăng. Khi toàn bộ quân Ngụy đã rơi vào bẫy phục kích, Tôn Tẫn sai bịt đường hẻm và bắn tên, quân Ngụy đại bại, Bàng Quyên cũng bỏ mạng trong đám loạn tên. 

23. Viễn giao cận công (遠交近攻)Xa thì giao thiệp, gần thì dùng vũ lực

Thời Chiến Quốc, tể tướng nước Tần là Phạm Thư đề ra kế viễn giao cận công, theo đó với các nước gần, Tần sẽ dùng vũ lực uy hiếp, chiếm thành chiếm đất, với các nước xa không đem quân đi được thì lại dùng ngoại giao dụ dỗ làm đồng minh. Cứ như vậy Tần nhanh chóng trở thành bá chủ của cả sáu nước chư hầu, tạo điều kiện cho Doanh Chính thống nhất Trung Quốc sau đó.

Tịnh chiến kế

24. Giả đạo phạt Quắc (假途伐虢)Mượn đường diệt Quắc, lợi dụng hòa hoãn địch để rồi quay lại tấn công bằng lợi thế do chính địch tạo ra cho mình 

Tấn Hiến công theo lời Tuân Tức mang đồ vàng ngọc hối lộ nước Ngu với lý do mượn đường nước Ngu để đánh nước Quắc, thực chất là Tấn Hiến công sợ Ngu sẽ sai quân cứu nước Quắc. Sau khi Tấn đánh tan nước Quắc, Ngu chỉ còn trơ trọi một mình, Tấn Hiến Công bèn đem quân quay về diệt nốt nước Ngu. 

25. Thâu lương hoán trụ (偷梁換柱) Trộm xà thay cột, phá hủy cơ sở của địch 

Nhà Tây Sơn bình định xong phía Nam nhưng quân Trịnh ở Bắc sông Gianh vẫn còn mạnh. Nguyễn Huệ bèn vượt biển, đánh thẳng vào đất căn bản của họ Trịnh ở Thăng Long. Hạ xong thành Thăng Long, quân Trịnh cũng tự tan rã. 

26. Chỉ tang mạ hòe (指桑罵槐)Chỉ cây dâu để mắng cây hòe, còn có biến thể khác là chỉ chó mắng mèo, tấn công gián tiếp kẻ địch thông qua một trung gian khác 

Tam Quốc trong lúc Tào Tháo đang đem quân đi đánh Viên Thuật thì lương thảo thiếu thốn, binh lính kêu than. Thấy vậy Tào Tháo mới lập kế đổ tội cho quan coi lương Vương Hậu là lừa dối trong cấp phát lương rồi chém lấy đầu Vương Hậu. Quân Tào từ đấy sợ không dám kêu ca nữa mà hết lòng đánh Viên Thuật.

27. Giả si bất điên (假癡不癲) Giả ngu chứ không điên, làm cho quân địch coi thường mình mà không đề phòng 

Thời nhà Tống, Nùng Trí Cao tự xưng đế ở phương Nam, hoàng đế nhà Tống phái quân đánh nhiều lần không được. Đại tướng Địch Thanh bèn bày kế giả đò sợ hãi làm quân của Nùng Trí Cao lơi là phòng bị, tức thì quân Tống tấn công đánh bại quân Nùng Trí Cao. 

28. Thượng ốc trừu thê (上屋抽梯) Lên nhà rút thang, còn có biến thể khác là qua cầu rút ván (tức Quá giang trừu bản) 

Nguyễn Hoàng xin Trịnh Kiểm cho mình vào trấn thủ Thuận Hóa để chống quân Chiêm Thành và nằm tránh bị Kiểm mưu hại. Sau Nguyễn Hoàng khai khẩn đất trong Nam, các con cháu ông lập thành nước riêng, không thần phục họ Trịnh nữa. 

29. Thụ thượng khai hoa (樹上開花) Trên cây hoa nở 

Khi Tôn Tẫn tới nước Yên làm Quân Sư, để đối phó với sự tấn công của Bàng Quyên, Tôn Tẫn đã bày mưu cho thái tử nước Yên Kế này. Với số quân ít ỏi khi ra đối phó với Bàng Quyên Thái tử đã cho binh sĩ chặt những cành cây kéo lê trên đường hành quân làm bụi tung mù mịt khiến mật thám của Bàng Quyên nghĩ rằng quân đội nước Yên đông gấp 10 lần do thám ban đầu. Bởi vậy Bàng Quyên đã rút quân. 

30. Phản khách vi chủ (反客為主) Từ chỗ là khách biến thành vai chủ, lấn dần dần đất của địch để đến chỗ địch không còn chỗ đứng 

Trong chiến dịch chiếm Hán Trung của Lưu Bị, Pháp Chính đã quân sư cho Hoàng Trung dùng kế phản khách vi chủ để cuối cùng chém chết được đại tướng của Tào Ngụy là Hạ Hầu Uyên.


Lữ Bố - Đổng Trác - Điêu Thuyền

Bại chiến kế

31. Mỹ nhân kế (美人計) Dùng gái đẹp để làm rối loạn quân địch 

Thời Xuân Thu, Câu Tiễn nước Việt bị Ngô vương Phù Sai đánh cho suýt mất nước. Phạm Lãi và Văn Chùng bèn hiến kế cho Câu Tiễn dâng mỹ nhân nổi tiếng của nước Việt là Tây Thi cho Phù Sai khiến Ngô vương vì đam mê tửu sắc mà bỏ bê việc chính sự, tạo thời cơ cho Câu Tiễn trả thù.

Và trong thời Tam Quốc, Vương Doãn lợi dụng con gái nuôi là Điêu Thuyền một thiếu nữ xinh đẹp,nhan sắc vạn người mê) dùng mỹ nhân kế chia rẽ tình cảm cha con Đổng Trác - Lã Bố khiến hai cha con họ tranh giành người đẹp. Và cuối cùng Đổng Trác bị con nuôi là Lã Bố giết tại cửa Bắc Dịch năm 192 

32. Không thành kế (空城計) Trong hoàn cảnh thành không có quân lại bị quân địch uy hiếp thì phải dùng những hành động kì lạ, trầm tĩnh khiến quân địch khiếp sợ tưởng có mai phục mà bỏ đi

Kế này gắn liền với điển cố về Gia Cát Lượng trong Tam quốc diễn nghĩa. Theo đó trong lúc Gia Cát Lượng đang giữ ngôi thành trống không có phòng thủ thì Tư Mã Ý bất chợt kéo quân đến. Đánh vào tính đa nghi của Tư Mã Ý, Gia Cát Lượng đã sai mở toang cổng thành, trên tường thành chỉ cắm tinh kỳ, lại sai người quyét dọn trước cổng làm như không có sự đe dọa của quân Ngụy. Cuối cùng Tư Mã Ý vì nghi ngờ mưu kế của Gia Cát Lượng nên đã rút quân, bỏ lỡ cơ hội ngàn năm có một để bắt sống địch thủ chính trên chiến trường. 

33. Phản gián kế (反間計) Lợi dụng kế của địch để biến thành kế của mình 

Thời Tam Quốc, Tào Tháo phái Tưởng Cán, bạn học cũ của Chu Du sang Đông Ngô để dò xét lực lượng đối phương. Chu Du đoán được mưu của Tào Tháo nên đã sử dụng chính Tưởng Cán để làm Tào Tháo nghi ngờ hai hàng tướng cực kì thông thạo thủy binh của Kinh Châu để rồi giết hai người đó. 

34. Khổ nhục kế (苦肉計) Tự làm mình khổ nhục để đánh lừa quân địch 

Câu Tiễn sau khi thất bại trước Phù Sai thì hết lòng tận tụy phục vụ Phù Sai như người hầu, thậm chí nếm cả chất thải của Phù Sai để giúp thầy thuốc khám bệnh cho Phù Sai, tất cả chỉ để che giấu sự chuẩn bị trả thù của nước Việt.

35. Liên hoàn kế (連環計) Sử dụng nhiều kế liên tiếp, muốn chiến thắng phải biết móc nối nhiều kế với nhau 

Liên hoàn kế gắn liền với giai thoại về Vương Doãn do La Quán Trung kể lại trong Tam quốc diễn nghĩa. Vì thấy Đổng Trác quá bạo ngược hung tàn nên Vương Doãn sử dụng liên hoàn kế trong đó có mỹ nhân kế gửi Điêu Thuyền vào chia rẽ hai bố con nuôi Đổng Trác và Lã Bố, sau đó dùng kế đục nước bắt cá khơi gợi ở Lã Bố sự thù địch với cha nuôi để rồi cuối cùng chính Lã Bố cầm kích đâm chết Đổng Trác. 

36. Tẩu vi thượng sách (走為上策)Gặp kẻ địch mạnh thì kế rút chạy thoát thân là thích hợp hơn cả trong 36 kế

“Tẩu kế” không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức mạnh, bào tồn lực lượng.

Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là “Tẩu kế”. 

(Nguồn : Wikipedia) 

No comments:

Blog Archive