THƯƠNG QUÁ MIỀN TÂY ƠI!
Tôi có 10 phòng trọ thì hết 9 phòng là dân miền Tây Nam bộ thuê.
Họ là những người dân ít học, làm những việc phổ thông, thu nhập bấp bênh.
Vậy nên thu những đồng tiền cần lao từ họ thấy khó khăn, ngập ngừng lắm.
Có lẽ tôi là một ông chủ trọ ít giống ai: người mới đến không cần thế chân đã đành, mà có khi cũng không nộp tiền ngay mà đợi đến khi làm có tiền. Có người cả hai vợ chồng làm hồ, bị chủ thầu quỵt lương, tôi cho thiếu ba tháng tiền trọ cả điện nước, sau làm có tiền lại họ thanh toán đầy đủ. Họ nói, may có anh cho thiếu chứ không thi bọn em phải về quê.
Tôi hiểu, về quê với họ là bước đường cùng.
Vì có đến bước đường cùng, họ mới bỏ quê đi tha phương cầu thưc, mà phải trở lại quê thì..
Với những người khác còn lại, thiếu và chậm tiền trọ là chuyện thường, cũng có vài trường hợp bỏ đi, nhưng không đáng kể.
Miền Tây Nam bộ, gọi là ĐBSCL, một vùng đất trù phú, tôi được nghe, được học từ khi miền Nam chưa được "giải phóng". Rằng đó là vựa lúa không những nuôi sống được cả Việt Nam mà còn cả Đông Dương.
Chỉ bốn năm sau "giải phóng", tôi đã có mặt ở vùng đất ấy. Tuy tôi làm công nghiệp, nhưng do sống cùng dân bản địa nên tôi ít nhiều hiểu về họ.
Vùng đất màu mỡ trù phú bao đời, làm chơi ăn thiệt, được thiên nhiên ưu đãi, đã sinh ra một tầng lớp dân chúng rộng rãi, hào sảng và tốt bụng, nhưng cũng có nhược điểm chết người: không lo đến ngày mai, nay hết mai lại có.
Ngay đến những người tận cùng, không vốn liếng buôn bán, không ruộng đất để cấy trồng, thì họ đạp xe lôi hay đi mần mướn: phát cỏ, cấy lúa, gặt mướn, mùa mưa thì giăng câu, lờ lợp kiếm cá... Hề gì, hết lại có, chơi xả láng sáng về sớm.
Họ cũng không chú ý đầu tư cho con cái bằng giáo dục, mà chỉ quan trọng là làm ra tiền, tiền tươi thóc thật. Thành ra đến một thôn ấp ta thấy trai gái trẻ trung ngời ngời nhưng không biết chữ là lẽ thường, chỉ biết đọc biết viết là khá lắm rồi. Từ "giải phóng" đến nay, tình hình không biến chuyển bao nhiêu cả do quan niệm của dân chúng và không chú trọng đầu tư của nhà cầm quyền. nên đây vẫn là vùng trũng của giáo dục cả nước...
Hơn 40 năm, đến nay, cuộc sống được thiên nhiên ưu đãi, dễ dàng đã dần dần không còn nữa, mà họ cũng không giải thich được nguyên nhân.
Ngày trước, việc làm nông đươc tiến hành bởi những lão nông tri điền, bao đời gắn liền với thổ nhưỡng ấy, vùng đất ấy.
Ngay cả những người lãnh đạo ở cấp cao như Ty, Sở, Bộ Canh nông chẳng hạn, họ được học hành bài bản, nhưng cũng trên nền tảng thổ nhưỡng của vùng đất quê hương ấy.
Năm một mùa lúa thôi, gặt và đốt đồng xong là đến mưa xuống, nước thượng nguồn sông Mekong đổ về, mang theo phù sa bồi đắp cho ruộng đồng. Cùng đó là lượng cá lớn từ hồ Tông lê Sap theo sang, bắt đầu một mùa nước nổi. Phải nói kinh tế mùa nước nổi là đặc trưng của vùng ĐBSCL. Giăng câu, bắt cá, hái bông súng, điên điển, muối dưa bồn bồn, làm mắm cá linh... những đặc sản mang hồn cốt Nam bộ.
Người và thiên nhiên cứ sống hài hòa như thế đời nọ đến đời kia, người ta "sống chung với lũ", thiên nhiên không cần con người "cải tạo".
Tất cả thay đổi khi xã hội miền Nam được điều hành bởi những người đến từ vùng đất khác, quen với thổ nhưỡng khác, tư duy và văn hóa khác.
Họ không chấp nhận chỉ có một mùa lúa, mà phải "không cho đất nghỉ, không ngừng tay ta", phải có những cánh đồng "5 tấn", "10 tấn" như Thái Bình thời đánh Mỹ.
Thế là họ nghĩ ra những giống lúa ngắn ngày, năng suất cao (nhưng giá trị thương phẩm thấp).
Mùa tiếp mùa, đất quay vòng ngay, không kịp phục hồi, bồi bổ mà phải tăng cường nhiều phân hóa học, dẫn đến đất bạc màu, lại phân hóa học, cứ thế quẩn quanh.
Người ta, thay vì "sống chung với lũ" như trước kia, thì nay lại đắp đê bao chống lũ. Việc này đã triệt tiêu kinh tế mùa nước nổi truyền thống bao đời.
Đắp đê bao chống lũ, đất làm lúa không được ngâm nước nên sâu rầy không bị tiêu diệt tự nhiên như trước nữa, mà phải sử dụng thuốc trị sâu rầy. Quá trình miễn dịch nên sâu rầy ngày càng khỏe lên, thuốc sâu rầy lại phải nặng đô lên, làm cho đất bị ô nhiễm, nước bị ô nhiễm. Cộng với nhà máy giấy Lee & Man, nhiệt điện than Tàu, đập thượng nguồn sông Mekong do người Tàu khống chế... Tất cả đang dần biến miền Tây thành miền đất chết.
Làm ra hạt lúa đã khó, lại bị thương lái ép giá vì lợi ích các doanh nghiệp xuất nhập khẩu độc quyền. Thành ra VN là nước xuất khẩu lúa gạo thứ nhì thế giới mà dân làm ra lúa gạo hưởng lợi ít nhất. Giá phân bón, thuốc trừ sâu nằm trong tay các nhóm lợi ích sân sau mặc tình tăng giá, mà không thể dùng ít được. Người dân làm lúa lãi rất ít, gần như không công.
Miền Tây đang trở thành miền đất chết.
Người miền Tây bỏ chạy tứ tán, họ có mặt tại Sài Gòn, Biên Hòa, BRVT, Bình Dương..., làm việc trong những KCN và làm tự do, với mức lương đủ cho họ tồn tại, tồn tại chứ không phải sống.
Miền Tây đang trở thành miền đất chết.
Miền Tây không phải quê hương tôi, cũng không phải quê ngoại xắp nhỏ, nhưng miền đất ấy là cuộc đời tôi thời trai trẻ.
Mỗi khi nghĩ lại và nhìn người miền Tây hôm nay, tôi không khỏi ngậm ngùi.
Thương quá miền Tây ơi!
P/S:
Bài cũ đã đăng trên ba trang Trần Tân, Đăng Tân Trần và Tan Tran (2 trang sau đã bị sập) 4 năm trước.
Nay đâng lại khi miền Tây đang cận kề cái chết, bằng cơn khát dữ dội, có nơi giá nước uống lên tới 450 000đ/m³. Khát do trời không mưa mà nước sông Me Kong bị chặn ở thượng nguồn do hơn hai chục đập thủy điện của Campuchia, Lào và Trung quoc.
Hãy cứu lấy miền Tây!
No comments:
Post a Comment