Chuyện đặt tên con
I. Chuyện đặt tên con ở trong nước
Thưa quý bạn, phần lớn các bậc cha mẹ ở trong nước khi đặt tên cho con đều có khuynh hướng chọn những cái tên có ý nghĩa, như Hùng, Cường, Minh, Trí… nếu là con trai, còn con gái thì Xuân, Hoa, Tuyết, Nguyệt, Hạnh, Dung, Huyền, Thủy, v.v… Hồi tôi còn nhỏ, ở quê tôi có một vị chánh án làm việc ở bên Nam Định, không hiểu sao ông bà “có tài” đẻ một dọc 4 người con trai, 3 người con gái và đặt tên là Hoành Sơn Lương Đống, Thủy Ngân Châu, nghe giống như thơ. Sau này lớn lên, suy nghĩ kỹ tôi thấy các tên đó đều hay và cả 7 cái tên hợp lại thành một câu rất có ý nghĩa.
Ngoài ra, tôi cũng được biết những người Huế có liên quan đến hoàng tộc có các tên như Công Tằng Tôn Nữ Như Trang, Công Huyền Tôn Nữ Bích Việt, v.v…, xem ra tuy có hơi dài thật nhưng… tại vì người ta là con cháu vua chúa thì phải vậy! Còn về phái nam, nếu là con cháu trực hệ của vua thì đặt theo Đế hệ thi: Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh / Bảo Quý Định Long Trường / Hiền Năng Kham Kế Thuật / Thế Thoại Quốc Gia Xương… (Các cụ ta ngày trước dịch nghĩa: Huấn nghiệp lớn tổ tiên gầy dựng / Gắng giữ gìn cho xứng ân sâu / Phồn vinh thịnh đạt dài lâu / Anh tài hiền đức cùng nhau bảo toàn…). Ví dụ anh Nguyễn Phước Bảo Tài ở Cần Thơ chẳng hạn, anh là cháu nội của vua Thành Thái (tên thật ngài là Nguyễn Phước Bửu Lân) và là con của hoàng tử Nguyễn Phước Vĩnh Giu. Chữ “Bảo” của anh đứng sau chữ “Vĩnh” của vua Bảo Đại (tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Thụy), vậy anh thuộc vai cháu của vua Bảo Đại. Còn trường hợp nữ ca sĩ Quỳnh Giao (1946-2014), tên thật là Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang, con của giáo sư Ưng Quả và bà Minh Trang. Chữ “Ưng” của cha cô đứng trước chữ “Bửu” (ví dụ Giáo sư Bửu Hội, Giáo sư Bửu Kế, Bửu Đăng…) rồi mới tới chữ “Vĩnh” của vua Bảo Đại. Vậy cô ngang hàng với Giáo sư Bửu Hội và thuộc vai cô của vua Bảo Đại. Cái lợi của Đế hệ thi do vua Minh Mạng đặt ra là nhìn cái tên sẽ biết vai vế của người mang tên đó trong hoàng tộc.
Những người cũng thuộc hoàng tộc Nguyễn Phước (tiếng Bắc đọc là Nguyễn Phúc) nhưng chỉ là người trong họ mà thôi chứ không phải con cháu nhà vua thì phái nam được gọi là Tôn Thất (ví dụ Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp…), phái nữ được gọi là Tôn Nữ (ví dụ Tôn Nữ Thị Hiếu, Tôn Nữ Băng Lan, Tôn Nữ Hoàn Mỹ, v.v…).
Ngày nay, theo nguyên tắc cha họ nào thì con họ nấy, ví dụ anh Nguyễn Phước Bảo Tài chẳng hạn, anh mang họ Nguyễn Phước, con cái anh mang họ Nguyễn hoặc Nguyễn Phước thì dễ rồi, song còn các vị không có hai chữ Nguyễn Phước mà chỉ có chữ “Ưng” (Giáo sư Ưng Quả, Ưng Thi), chữ “Bửu” (Giáo sư Bửu Hội, Bửu Đăng), chữ “Bảo” (thái tử Bảo Long) chẳng hạn thì con cái sẽ bị… mắc kẹt, bởi vì không có họ nào là họ Ưng, họ Bửu, họ Bảo để theo “họ” của cha được. Tuy nhiên, ngay đến chữ “Vĩnh” thì ngày nay các cụ cũng lớn tuổi rồi, đa số đều đã qua đời, không còn con nhỏ mới bắt đầu làm khai sinh để gặp rắc rối. Riêng các vị mang họ hai chữ Tôn Thất và Tôn Nữ thì hơi phiền, bởi vì trên thực tế, thể chế quân chủ tại Việt Nam đã chấm dứt từ lâu, bây giờ nếu tiếp tục đặt tên con theo Tôn Thất hay Tôn Nữ là không hợp lý, mà trở lại với họ hai chữ Nguyễn Phước thì con không cùng họ với cha. Chính quyền hết sức lúng túng nhưng chưa biết giải quyết cách nào.
Những cái tên… kỳ cục
Ngày trước, hồi tôi còn dạy học, chưa tới tuổi nghỉ hưu, trong số học sinh của tôi có một em tên là Hà Văn Cu, tôi thường nghĩ thầm rằng tại sao cha mẹ em lại “tiết kiệm”, không thêm cho em một cái râu để trở thành Hà Văn Cư có phải hơn không. Năm sau, cũng một trong các lớp 12 tôi dạy, có em mới ở lớp 11 lên tên là Hà Văn Cu Nhỏ. Tôi mở sổ sách ra coi tên cha mẹ thì biết em là em ruột của em Hà Văn Cu đã đậu tú tài và vừa thi đậu vào trường Nông Lâm Súc. Hôm họp phụ huynh học sinh trong trường, gặp mẹ của em Hà Văn Cu Nhỏ, tôi nói với bà: “Thưa bác, cái tên “Cu” thì đâu có gì là hay mà em lớn hai bác đã đặt tên “Cu”, đến em của nó hai bác cũng lại đặt tên Cu có thêm tiếng Nhỏ thì còn ra thể thống gì nữa. Nuôi con là muốn cho con ăn học nên người. Bác thử tưởng tượng, nếu sau này em trở thành luật sư, bác sĩ mà trương cái bảng “Luật sư Hà Văn Cu Nhỏ” hay “Bác sĩ Hà Văn Cu Nhỏ” thì khách hàng họ đâu có chịu”. Bà nói: “Ối, tại ổng đặt chớ tui đâu có đặt mà biết. Thầy biểu phải làm sao bây giờ?”. “Bác về bàn với bác trai, hỏi người ta xem cách làm đơn xin đổi tên như thế nào. Chắc hơi khó nhưng thà đổi còn hơn mang cái tên Cu Lớn, Cu Nhỏ suốt đời…”. Sau đó rồi tôi cũng quên, không để ý xem câu chuyện đổi tên đó ra sao.
Trong cuốn Hơn nửa đời hư, học giả Vương Hồng Sển (1902-1996) – một người rất nổi tiếng, đã viết tới hơn 20 cuốn sách nghiên cứu rất có giá trị – kể rằng quê ông ở Sóc Trăng, gia đình thuộc loại khá giả. Khi sinh ra ông, cha ông mừng lắm nên đặt tên ông, nếu đọc theo tiếng Việt là Vương Hồng Thịnh. Nhưng do cha ông không biết viết tiếng Việt nên viết theo chữ Hán. Đem miếng giấy ra xã làm giấy khai sinh, người thư ký cho biết ông xã trưởng đang mắc đánh bài ở nhà. Đáng lẽ cứ gửi miếng giấy ở đấy rồi dặn người thư ký là xong, nhưng cha ông lại cẩn thận đem đến nhà, định dặn ông xã trưởng tên đứa nhỏ là Vương Hồng Thịnh. Lúc cha ông đến, ông xã trưởng đang thua nặng gần hết tiền nên nói: “Mầy cho tao 3 đồng đặng tao gỡ rồi mơi tao mần cho”. Ba đồng lúc ấy rất lớn, trong khi làm giấy khai sinh không phải tốn tiền, nên cha ông chỉ cho có 1 đồng. Ông xã trưởng giận, bèn trả thù bằng cách nhân cha ông viết miếng giấy theo chữ Hán nên cứ thế khai sinh cho ông đọc theo tiếng Tiều (Triều Châu) là Vương Hồng Sển. Lớn lên, đi học, ông rất mắc cở với bạn bè vì cái tên kỳ cục này. Cho đến khi ông sắp đi thi tú tài, cha ông hỏi nếu muốn đổi tên thì cha ông sẽ bỏ tiền ra lo cho, chứ nếu thi xong, may ra mà đậu, tên tuổi, bằng cấp được gởi qua Pháp thì sẽ không đổi được nữa. Lúc ấy má ông mới mất, ông thương má lắm nên nói thôi, nếu đổi tên, những lúc cúng cấp má không biết con là ai cả, thà giữ cái tên xấu mà má nhận ra còn hơn, bởi vậy ông phải mang cái tên… không giống ai hết đó suốt đời.
Thế đấy, một vị học giả nổi tiếng, ngay đến ông Nhu ông Diệm cũng biết tiếng, cử làm giám đốc Viện Khảo cổ suốt bao nhiêu năm, vậy mà ông còn mắc cở với cái tên Tiều không ra Tiều, Việt không ra Việt của mình huống chi người khác!
Gần đây, tờ báo ANTG có kể một số trường hợp đặt tên con rất kỳ cục khó ai có thể tin đó là sự thực. Tuy nhiên, tờ báo này đăng kèm theo giấy Chứng minh Nhân dân, Bằng lái xe, v.v… của “đương sự” đàng hoàng để chứng minh rằng tất cả đều là chuyện thật, không phải tưởng tượng. Bây giờ xin mời quý bạn xem qua cho biết. Sau đây là lời kể của phóng viên Cao Trí trong báo ANTG do Đoàn Dự ghi lại…
Vợ chồng ông bà Lê Văn Bốn – Nguyễn Thị Tư ở xã Phước Kiểng, huyện Nhà Bè, Sài Gòn, sinh người con gái đầu lòng, họ đặt cái tên rất dài gồm 8 chữ là “Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhàn”. Đến người thứ hai, cũng con gái, họ đặt: “Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Linh Phượng”. Tới người thứ ba, con trai, họ đặt càng “độc” hơn nữa, tới 9 chữ: “Lê Hoàng Hiểu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhân”. Theo tìm hiểu của chúng tôi (nhà báo Cao Trí, phóng viên tờ ANTG. -ĐD), cả ba cái tên đều được ông Bốn định hình ngay từ khi những đứa con của ông còn nằm trong bụng mẹ. Bà Tư, vợ ông, nói: “Lúc tui mang bầu, nhiều đêm thấy ổng trầm ngâm suy nghĩ xem nên đặt tên con như thế nào để vừa hay vừa có ý nghĩa, đồng thời qua cái tên, con cái sẽ gặp may mắn trong cuộc sống”. Khi đứa con gái đầu lòng ra đời và được biết ông đặt tên là Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhàn, bà có thắc mắc tại sao ông lại đặt dài dằng dặc như thế, “Ổng có giải thích từng chữ, nghe có lý lắm nhưng đã lâu nên tui quên mất rồi”.
Sau này, khi ba người con lớn lên, cũng do cái tên quá dài nên cả ba thỉnh thoảng lại bị chính quyền địa phương mời lên, đề nghị sửa bớt cho ngắn lại, vì nhiều loại giấy tờ chừa hơi ngắn, không đủ chỗ để ghi. Tuy nhiên, nếu muốn sửa thì phải có phán quyết của Sở Tư pháp, vì nó liên quan đến Hộ khẩu, giấy Chứng minh Nhân dân, Bằng lái xe và nhiều giấy tờ khác, rất khó khăn, vậy nên cả ba chị em chỉ giải quyết một cách đơn giản là… viết tắt những chữ lót. Ví dụ tất cả các giấy tờ, bằng cấp của Lê Hoàng Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhân thì chỉ ghi họ Lê, tên Nhân, còn tất cả những chữ kia đều viết tắt: H.H.N.Đ.N.T.T. Ngoài ra, khi đi làm hoặc thực hiện những việc cần phải nêu danh tính, cái tên của họ đã khiến rất nhiều người ngạc nhiên và tò mò.
Đặt tên cho con theo… sự kiện!
Ngoài những trường hợp “dài thoòng” nêu trên thì cũng có không ít các bậc cha mẹ do một sự kiện hoặc nghề nghiệp nào đó rồi lấy đấy đặt tên cho con. Ông Nguyễn Văn Tới, nhân viên đường sắt, chuyên làm công việc bẻ ghi – nghĩa là điều khiển chỗ nối đường ray cho tàu chuyển sang ray khác khi vào tới ga. Khi vợ ông sinh con gái đầu lòng, ông đặt tên cho con là Nguyễn Thị Bẻ Ghi. Cô Ghi kể: “Hồi học tiểu học, em đã nhiều lần khốn khổ vì cái tên đó. Cứ mỗi lần hễ thấy em vào lớp là bọn con trai đồng thanh la lớn: “Bẻ, bẻ cái gì?” và một nhóm khác vừa làm bộ kéo kéo, giật giật, vừa la tiếp: “Bẻ cái ghi!” rồi họ cười khúc khích.
Lúc lấy chồng, không hiểu trời xui đất khiến thế nào, chồng cô Bẻ Ghi lại tên là Lê Văn Quẹo, khiến nhiều khách được mời trong tiệc cưới nói đùa: “Bẻ ghi xong mà tàu không quẹo thì lật đánh rầm là cái chắc!” Tôi (nhà báo Cao Trí, phóng viên báo ANTG. -ĐD) hỏi sao cô không làm đơn đề nghị đổi tên? Cô Bẻ Ghi lắc đầu: “Em cũng đã từng nghĩ đến, nhưng thôi, tên là do ba em đặt, xấu tốt gì cũng là kỷ niệm của ba em. Xin đổi thì hóa ra mình bất kính với cha”.
Cũng đặt tên cho con theo sự kiện, năm 1987, ông Mai Xuân Cán – lúc ấy là cán bộ thuộc UBND xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam – sinh đứa con thứ 5 nên bị UBND xã phạt 6.500 đồng về tội vi phạm chế độ sinh đẻ không có kế hoạch. 6.500 đồng lúc ấy lớn lắm. Xin Ủy ban “thông cảm” mãi không được, ông Cán tiếc tiền, tức giận bèn đặt tên con là “Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi” (Mai là họ Mai – ông Cán họ Mai – chứ không phải ngày mai). Mặc dầu đã được nhân viên hộ tịch khuyên can nhưng ông Mai Xuân Cán vẫn nhất quyết đặt tên con như thế. Trước thái độ ương ngạnh của ông, UBND xã Đại Cường đành… chịu thua, phải chấp nhận làm giấy khai sinh cho con ông với cái tên mang tính “sự kiện” đó. Ông Mai Xuân Cán cho biết ông đã nhiều lần giải thích với ủy ban xã việc ông sinh con vượt kế hoạch là ngoài ý muốn, vì vợ ông đã đặt vòng tránh thai (do chính trạm y tế xã làm) nhưng không hiểu sao nó “trôi” đâu mất mà vợ chồng ông không biết. Lỗi đó là do trạm y tế. Ông đề nghị UBND xã tha phạt nhưng ủy ban không tha, ông tức giận lắm.
Với cái tên kỳ dị đó, lúc lên cấp II, bị bạn bè trêu chọc nên con ông bỏ học hai năm. Cuối cùng, khi cậu “Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi” được 18 tuổi, ngày 1/9/2005, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam đã chấp thuận cho cậu đổi tên thành Mai Hoàng Long.
Tương tự như trên, năm 1989, ông Võ Mười Sáu (ở xã Tiên Lãnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam) bị chính quyền phạt vì sinh đẻ vượt kế hoạch. Do hoàn cảnh lúc ấy quá khó khăn, phải bán lúa để lấy tiền nộp phạt nên ông đặt tên cho con là Võ Thị Xin Thôi. Theo ông Sáu, “Đặt như vậy là để tự nhắc nhở mình thôi đừng đẻ nữa”. Mãi đến năm 18 tuổi, thấy cái tên kỳ cục quá, cô Võ Thị Xin Thôi xin đổi tên mới.
Bên cạnh việc đặt tên con dựa theo sự kiện, có bậc cha mẹ còn cố ý đặt tên con thật xấu để “ông bà đừng bắt nó đi”, nên mới xuất hiện những cô Trần Thị Hĩm, Nguyễn Thị Bụp, hoặc Lê Cu, Lý Văn Nhồng…
Với dân tộc Mường, những cái tên như Đinh Thị Chó, Đinh Thị Mèo, Bùi Văn Phân là chuyện bình thường, song với người Việt thì có lẽ khó chấp nhận. Ở huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, có ông Bùi Văn Ỉm, là lãnh đạo của một xã. Với dân chúng trong xã thì nghe tên Ỉm họ đã quen nhưng mỗi lần có hội nghị trên huyện, cái tên Ỉm đã khiến mọi người cười bò khi nó được xướng lên, bởi vì “ỉm” trong tiếng Mường là… bộ phận sinh dục phụ nữ!
Cũng không ít những bậc cha mẹ đặt tên con theo ngẫu hứng. Ông Phan Thành Nhân, lúc đang ngồi nhậu với bạn bè thì con gái ông gọi điện thoại báo tin: “Má đã vô bệnh viện rồi. Má sanh con trai”. Ông khoái quá. Khi làm giấy khai sinh, do vợ ông họ Đào nên ông đặt tên cho con theo kiểu “văn minh”, ghép giữa họ cha và họ mẹ là Phan Đào Ba Xị, bởi vì lúc ông lai rai với bạn bè, mới “làm” xong 3 xị rượu đế thì nghe tin vợ đẻ con trai! Sau này, khi lớn lên, anh Phan Đào Ba Xị kể rằng trong một lần đi dự đám cưới đứa bạn, Ba Xị được xếp ngồi bên cạnh một cô rất đẹp. Trong lúc trò chuyện với nhau có vẻ thân mật, cô gái cho biết tên mình rồi hỏi Ba Xị tên gì. “Em mắc cở quá, chỉ dám nói mình tên Xị chớ không dám nói cả tên Ba Xị”.
Gần đây, ở trong nước có phong trào dùng tiếng nước ngoài đặt tên cho con, chẳng hạn như Lê Thị Angelina, Trần Văn Sam Sung, hoặc đặt theo tên các ngôi sao ca nhạc Nam Hàn như Nguyễn Văn Tae Hee, Hoàng Thị Sung Gi, v.v… Chỉ tội cho cậu bé Nguyễn Văn Tae Hee, bị bạn bè gọi là Nguyễn Văn Tè He, còn cô Hoàng Thị Sung Gi thì trở thành Hoàng Thị Súng Gỉ! Thậm chí có người còn lấy tên của các chính khách trên thế giới đặt cho con mình (như Đỗ Phi Đen Cacstro, tức Fidel Castro).
Một cán bộ tư pháp ở quận 6, Sài Gòn, cho biết: “Có nhiều cái tên đọc muốn… trẹo quai hàm, ví dụ như Vũ Nguyễn Cẩm Trúc Bách Nguyệt hoặc mang hơi hướm bạo lực như Trần Trường Hận, Phan Thị Sầu Đời… Đề nghị họ sửa thì họ chẳng chịu sửa, mà pháp luật lại không cấm nên chúng tôi đành chịu”.
Đứng về mặt tâm lý, những cái tên kỳ dị ít nhiều cũng tạo ra sự mặc cảm cho đứa trẻ khi lớn lên, đi học, đi làm. Như cô Nguyễn Thị Bẻ Ghi chẳng hạn, mặc dầu đã xác định rằng tên do cha đặt, nhưng cô cũng không khỏi lúng túng lúc thi đại học, thấy giám thị vừa đọc tên cô vừa cố nín cười.
Ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giáng, ông Vũ Tần đã đặt tên cho ba đứa con lần lượt là Vũ Loạn Lạc, Vũ Thị Lạc Lang, Vũ Lang Thang (cứ tên thứ nhất có liên quan với tên thứ hai, tên thứ hai liên quan tới tên thứ ba) như một phản ứng với cha mẹ ruột của ông rằng ba đứa cháu nội sẽ là những kẻ lang thang không quê quán, không cội nguồn, vì cha mẹ ông đã không chấp nhận vợ ông làm dâu. Chỉ khổ cho ba người con sau này phải chịu mặc cảm vì những cái tên kỳ quặc.
Sự thật, ngay cả những cái tên đặt quá đẹp cũng chưa chắc đã may mắn. Chị Dương Thị Diễm Lệ ở quận 10, Sài Gòn, đã cương quyết từ hôn chỉ vì lúc bà mẹ chồng tương lai đến xem mắt, sau đó bà nguýt dài: “Tên một nơi, người một nẻo!”.
Anh Lâm Đại Hùng, tên nghe rất “oai” nhưng anh chỉ cao 1,57 mét, nặng 43kg, mặt đầy tàn nhang, trứng cá, khi quen với một cô trên mạng internet, rồi trong lần hẹn hò gặp nhau đầu tiên, cô ấy nhất định không chịu tin anh là… Đại Hùng!
Cô Đào Thị Long Lanh Kim Ánh Dương, quê ở Thái Nguyên, cho biết vì tên quá dài nên bạn bè có người gọi cô là Dương, có người gọi là Ánh Dương, nhưng cũng có người cắc cớ gọi cô là… Long Lanh!
Theo bác sĩ Đào Trần Thái, nguyên chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần Đại học Y Dược Sài Gòn, thì: “Ngay từ lúc 5 – 6 tuổi, đứa trẻ đã có thể nhận biết được tên mình đẹp hay xấu qua lời khen chê của người lớn mặc dầu chưa hiểu hết ý nghĩa của cái tên đó, không kể những cái tên quá kinh dị, chẳng hạn như “Nguyễn Hận Đời”, “Dương Thị Bội Phản” cũng sẽ ám ảnh trẻ. Theo thời gian, cùng với những biến đổi tâm sinh lý của tuổi mới lớn, trẻ sẽ phản ứng dưới nhiều hình thức khi cái tên bị đem làm trò cười hoặc gây ra sự ngạc nhiên, tò mò cho người khác. Khi lớn lên, nó biến thành mặc cảm”.
Nêu lên những vướng mắc về việc Dự thảo Luật Hộ tịch không đề ra các nguyên tắc đặt tên cho con khiến các cán bộ tư pháp địa phương gặp khó khăn, đại biểu quốc hội Nguyễn Thị Nhung đơn vị Khánh Hòa nói: “Qua thực tế, cán bộ ở cơ sở sẽ bất lực khi thuyết phục cha me đừng đặt tên xấu cho con như Đinh Sâu Rum, Cao Ki A, Lê Văn Hận, Nguyễn Văn Lì, hoặc tên quá dài, quá phức tạp như Lê Hoàng Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Tâm Nhân, đã gây không ít khó khăn cho cán bộ hộ tịch ở các cấp phường, xã, bởi lẽ khi họ muốn đổi tên là phải thay đổi hàng loạt các Chứng minh nhân dân, giấy đăng ký xe, giấy phép lái xe, hồ sơ, hoc bạ, v.v…” Bà Nhung đề nghị cần có nguyên tắc đặt tên và xác định họ cho phù hợp với phong tục, tập quán của người Việt Nam.
II. Tên Việt trên đất Mỹ
Thưa quý bạn, mấy hôm nay bạn bè ở nước ngoài thi nhau gửi cho Đoàn Dự tôi bài “Tên Việt trên đất Mỹ” không biết của ai. Thấy bài này ngộ nghĩnh, tức cười và phù hợp với bài đang viết về cách đặt tên cho con… không giống ai hết của nhiều bậc cha mẹ ở trong nước, vậy nên Đoàn Dự tôi mạn phép vị tác giả mà tôi không biết là ai nên không liên lạc được, đăng lên để quý bạn độc giả cùng thưởng thức. Xin nói rõ là Đoàn Dự tôi chưa có dịp sang Mỹ bao giờ nên chưa biết thực tế câu chuyện thế nào, chỉ thấy vui vui thôi, nhất là không đả kích ai cả, xin mời quý bạn ai chưa coi bài này thì xem qua cho vui. Nay kính. ĐD.
Cũng như đêm cuối cùng của Đường Tăng trằn trọc không sao ngủ được, chờ ngày mai vào yết kiến Như Lai để lên kiếp Phật. Cụ Phúc đêm nay cũng vậy! Ngày mai cụ sẽ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Cụ nằm trăn trở nghĩ đến cả mười năm trời đằng đẵng, từ khi đủ năm để hợp lệ nạp đơn đến những đêm đứa con trai đi làm về chở cụ đi học lớp luyện thi vào quốc tịch ở văn phòng USCC. Cụ nghĩ nó như con thoi giữa hai thế hệ. Trong tuần đưa cụ đi học tiếng Anh, bắt cụ phải trả lời điện thoại “hello” chứ nói “tôi nghe đây” làm sao Mỹ hiểu được. Cuối tuần đưa con đi học tiếng Việt, mắng con gọi xe “fire truck” là “xe lửa”, phải nói là “xe cứu hỏa” hay “xe chữa lửa” chứ. Nhiều lúc cụ thấy phải chi mà thằng chắt đi học tiếng Anh, còn cụ đi học tiếng Việt thì mới đúng theo lý tự nhiên của trời đất.
Thoạt đầu cụ tưởng cả lớp luyện thi vào quốc tịch này, đầy những cụ tuổi gần đất xa trời, học để giết thì giờ, cho bớt nỗi buồn xa xứ. Vậy mà ngày bà cụ Ngà thi rớt, cả lớp xôn xao lên như ngày Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam. Thực ra thì bà này rớt cũng đáng kiếp lắm. Đời thuở nào ông quan tòa hỏi tổng thống Mỹ là ai, bà cụ lại trả lời là Nguyễn văn Thiệu thì đậu làm sao được?
Sinh nhật người nào trong lớp, bà cũng làm cho một cái bánh gà-tồ rồi bắt các cụ vây quanh hát “Happy Birthday”. Cụ không biết đến ngày chết thì người ta có hát “Happy Deathday” hay không, bởi vì cụ nhớ bên quê nhà những ngày kỵ giỗ mới thật là quan trọng. Con cháu tụ họp ăn uống 2 – 3 ngày liền. Chứ ngày bước vào trần thế khổ ải này, người ta phải dày công tu hành để thoát ra khỏi vòng luân hồi, thì mừng rỡ ngày sinh để làm gì?
Vậy mà thời gian thấm thoắt qua đi, rồi cũng đến ngày cả lớp đi thi. Các cụ sáng sớm đã ngồi đầy ra ngoài phòng đợi của Sở Di trú trong Tòa Đô sảnh thành phố. Cụ nghĩ ngày xưa đi thi Hương, thi Đình cũng chỉ nhộn nhịp đến thế là cùng: Con cháu đem theo cho nào là bánh trái, nước uống, cả ghế xếp để ngả lưng, làm như thi vào quốc tịch đến mấy ngày trời. Bây giờ trí nhớ các cụ kém cỏi, học được tiếng Mỹ chữ nào, vài bữa lại quên không biết phát âm làm sao.
Cho nên đi thi, cụ nào cũng viết chi chít, như xâm mình trên tay, các câu trả lời phiên âm ra tiếng Việt. Thằng cháu cụ Tốc thì cứ nhắc đi nhắc lại: Ngoại nhớ ngày lễ quan trọng nhất của Mỹ không phải là Tết, mà là ngày Độc Lập nha! Cụ lại kéo tay áo lên lẩm bẩm kiếm chữ IN ĐẺ BÊN ĐÀNG. Bà cụ Ngà hỏi với qua: “Có phải là ngày Tây về nước không, cụ Phúc?”. Cụ đành thở dài, biết ông tòa muốn đánh rớt thí sinh nào thì chỉ cần bắt hát bài quốc ca Mỹ là thí sinh đó rớt ngay.
Vậy mà giời phù hộ, cả lớp đậu hết. Cụ còn nhớ ngày ăn mừng tân khoa, cụ nào cũng hí hửng như đứa trẻ con vừa được lên lớp, cầm vẫy lá cờ Mỹ để chụp hình lưu niệm. Bà cụ Ngà hôm ấy đẹp hẳn ra, mặc cái váy đầm thay cái quần đen, vừa nói “Con gà tui lội sông” (congratulations) vừa high-five, vừa “hug” mọi người. Cụ thấy tất cả đều như trẻ ra đến hàng chục tuổi. Có thể là vì cái ôm nồng nàn da thịt của bà cụ Ngà làm cụ thấy trong người đổi thay như cả một mùa xuân hừng hực kéo nhau về. Có thể là vào quốc tịch mới, làm người ta tưởng như đổi thành một kiếp người khác, trở lại cái tuổi tập ăn tập nói, nên hồn nhiên như đứa trẻ thơ.
Thế mà đêm nay cụ lại trằn trọc. Một phần là vì cụ cứ nghĩ đến ngày mai ở Tòa Đô chính, ông thị trưởng thành phố tổ chức nghi lễ tuyên thệ vào quốc tịch riêng cho cộng đồng người Việt, để đánh dấu một chặng đường gần phần tư thế kỷ tàn cuộc chiến tranh của người Mỹ tại Việt Nam. Ông chủ tịch mấy hôm nay hăm hở nhắc nhở bà con mặc đồ cho đẹp để lên truyền hình. Mọi người học thuộc lòng câu “I am proud to be American” để khi báo chí, radio người Mỹ phỏng vấn thì tỏ ra cộng đồng người Việt mình mau hội nhập hơn các cộng đồng sắc tộc khác.
Cụ cứ nghĩ tới lúc trước cử tọa cả nghìn người, có thống đốc tiểu bang, nghị sĩ, dân biểu quốc hội, quan chức các ngành, người ta gọi tên cụ lên khán đài nhận bằng công dân Mỹ, là cụ lại xốn xang trong dạ. Chả là vì cụ ngang bướng giữ cái tên cúng cơm của cụ. Họ tên của cụ trong tờ khai sinh là Dư Quí Phúc. Ở trại tỵ nạn, cụ đã bao nhiêu lần cãi gàn cãi bướng với mấy người thông dịch viên là tên cụ phải có dấu mới là tên của cụ. Tiếng Việt, một chữ có hằng chục nghĩa nếu không bỏ dấu. Thí dụ như LO có thể là lờ, lợ, lớ, lơ, lộ, lô, lố, lồ, lồ, lo, lọ,lò, ló, lõ… Vậy mà có ai nghe cụ đâu, người ta cứ điền vào tên trước, họ sau.
Cho đến hôm cụ còn nhớ mãi ngày nhà thờ First Bapstist Church bảo trợ gia đình cụ đến thành phố này. Hôm ấy chủ nhật, nhà thờ đông đảo chật cứng đến nỗi người ta phải đứng lan ra ngoài hành lang. Ông mục sư trịnh trọng giới thiệu gia đình cụ mới định cư. Cứ mỗi lần tả cảnh gian khổ gia đình cụ đã phải trải qua, cả nhà thờ lại xướng ầm lên Alleluja có nghĩa là ngợi khen chúa. Cuối cùng ông mục sư nói dõng dạc giới thiệu cụ: Please welcome, Mr. Phuc Du. Cái giọng ông oang oang lên “Phuc Du”. Cả nhà thờ đang xôn xao bỗng im lặng như chiếc xe lửa thắng gấp lại rồi lấy trớn lao tới, cười nghiêng, cười ngả. Ông mục sư ngơ ngác sửa lại gọng kiến, nhìn xuống tờ giấy viết tay rồi đọc lại tên cụ lần nữa “Phuc Du”. Lần này đến phiên ông mục sư gập người lại làm đôi, cười sặc sụa, chảy cả nước mắt nước mũi ra, cười tóe khói. Cụ Phúc chân ướt chân ráo, tưởng đó là phong tục địa phương chào đón mình, đứng bụm hai tay đưa lên trán vái tứ hướng để cảm ơn sự ưu ái của nhà thờ.
Sau này ông mục sư cho người đến đề nghị cụ đổi tên gọi để lấy lại sự nghiêm trang. Một là cụ lấy hẳn tên Mỹ như John, Peter, Larr, v.v… cho dễ gọi, hoặc phiên âm tên cụ ra tiếng Mỹ là Mr. Foot Joy. Cụ bực lắm, tên cụ từ Việt Nam là Quí Phúc, nghĩa là ơn phước quí báu của Trời Phật ban cho, sang đến đây thì lại thành Túc Hân, là bàn chân hân hoan. Cụ bỏ xứ sở ra đi, mất hết chỉ còn một cái tên Việt là di sản gốc gác của cụ mà đành phải mất luôn sao? Từ đó cụ không đi nhà thờ Tin Lành nữa, nhưng tên cụ thì cứ tạm thời giữ vậy. Cụ đi tỵ nạn ít lâu, khi nào quốc gia thanh bình thì lại dắt các con cháu về. Thà làm cụ Phúc nước Việt, hơn làm cụ Túc nước Huê Kỳ!
Ngày mai cụ tuyên thệ vào quốc tịch Mỹ. Thế mà cụ Phúc lại trằn trọc, đêm nay không sao ngủ được. Cũng bởi vì mấy hôm trước các cụ tân khoa bàn về chuyện tiếp tân mừng ngày nhập tịch Mỹ. Bế tắc từ đầu chỉ vì các cụ phải chọn món ăn cho buổi tiệc. Món ăn nào đãi khách vừa thích hợp với quốc tịch mới, vừa có bản sắc dân tộc.
Ông Hai Bò lên tiếng ngay. Ông này tên Việt Nam là Cao Văn Tự, trong giấy tờ viết là Tu Cao. Mỹ đọc là “two cows” nghĩa là 2 con bò, từ đó có tên Hai Bò. Ông vốn là dân thông dịch viên cho Mỹ ở căn cứ Long Bình, sang bên này bán bảo hiểm nhân thọ. Cụ nào mà được ông kéo riêng ra góc phòng đều sợ run lên như tử thần đến, vì ông Hai Bò cứ thúc giục luôn: “Cụ thử nghĩ coi, cụ còn sống được bao lâu? Trời gọi ai người nấy dạ. Thú chết để da, người ta chết để tiếng. Mấy cụ qua đây ăn phút-tem (Food stamps) thì có tiếng gì mà để, chi bằng mua cái bảo hiểm nhân thọ, đến khi chết để lại cả bạc triệu cho người ta xây một cái chùa hay nhà thờ có phải là tên tuổi mình khắc vào bia đá nghìn năm, bất tử với đời không?”. Tưởng ông dọa chết thì cóc ai thèm mua, thế mà từ ngày cụ Hanh mua cái bảo hiểm nhân thọ đầu tiên, Hai Bò bỗng đắt khách như tôm tươi.
Chả là vì cụ Hanh mới đoàn tụ gia đình vài năm nay. Mấy đứa con qua từ năm 75, nhà cao cửa rộng. Ngày cụ đến phi trường không thấy đứa nào ra đón. Thằng Tư thì đùn cho chị Ba; vợ thằng Bảy thì nói nhà nó có lầu cao, sợ ổng già đi chỏng gọng, té bể đầu. Hôm ấy, cụ Hanh lủi thủi đi với bà Mỹ USCC về ở cái phòng trong khu housing Mỹ đen. Hôm nghe Hai Bò dụ mua bảo hiểm nhân thọ, lại chịu lấy bằng phút-tem, cụ Hanh mua ngay. Vài hôm tin đồn cụ có cái bảo hiểm bạc triệu, mấy đứa con bỗng có hiếu hẳn ra, tranh nhau mời cụ về nhà ở. Chồng con Năm Thúy đánh lộn với thằng Tư chỉ vì tội không để cho nó báo hiếu nuôi ông già vợ. Ngày nào cụ muốn ăn thức gì, đám con rối rít đi mua về ăn không hết. Có điều hơi lạ là… không đứa nào mua sâm Cao-ly để cụ uống cho khỏe người, sống thọ thêm ra.
Thỉnh thoảng trái gió trở trời, cụ mới ho hen cảm cúm nằm trên giường vài ngày là cả nhà xúm lại bàn chuyện làm cái di chúc sao cho hợp lệ với thủ tục tiểu ban, để lãnh tiền bảo hiểm mà không phải đóng nhiều thuế.
Thấy cụ Hanh chỉ mua cái bảo hiểm nhân thọ mà được con cái hậu đãi, đi học mặc áo vest, tay cầm mô-bai phôn thì các cụ ngộ ra rằng tội gì ở xứ Cờ Hoa này mà không làm triệu phú. Sống trên đời mà không mua bảo hiểm nhân thọ, xuống âm phủ biết có hay không, bèn ùn ùn theo năn nỉ Hai Bò để được giá rẻ. Chết được bonus một cái hòm cẩm lai của nhà táng xác tặng quảng cáo.
Hai Bò bỗng dưng trở thành ân nhân của hội bô lão, nên khi Hai Bò nói bất cứ cái gì mọi người đều lắng tai nghe. Hai Bò trịnh trọng xoa hai tay vào nhau: “Cái tradition của người Mỹ từ trước đến nay, party mà có tính cách dân tộc là phải có barbecue. Barbecue là chữ ghép bởi 2 chữ “barbaric” và “cuisine”, có nghĩa là cách nấu ăn mọi rợ. Ám chỉ một sinh hoạt văn hóa bán khai của người da đỏ ngày trước. Họ mới là người Mỹ chính hiệu con nai vàng. Tuy những người da trắng đến đây, dùng vũ lực cướp hết đất đai của người da đỏ để lập nên Hiệp Chủng Quốc, người Mỹ luôn luôn nhắc nhở con cháu, ông tổ Mỹ là người da đỏ, bằng cách ăn barbecue. Do đó chúng ta trở thành công dân Mỹ, uống nước nhớ nguồn, “drinking water remember origin hole”. Tôi xin đề nghị món ăn barbecue”.
Cụ Can’t Do đứng lên khua tay phản đối. Tên thật cụ là Đỗ Thành Cẩn. Viết theo lối Mỹ thì cả họ lẫn tên là Can T. Do. Bà cô dạy Anh ngữ thấy cụ chả bao giờ chịu làm homework, bèn đọc luôn là “Can’t Do”. Cụ là người duy nhất không mua bảo hiểm của Hai Bò vì bà xã cụ còn sồn sồn. Cụ chỉ sợ có bảo hiểm nhân thọ thì nhiều khi chết sớm vì lâu nay cụ Can’t Do không còn hăng hái trong chuyện phòng the, mà vợ cụ còn xuân xanh lắm. Ngày xưa bán bánh cuốn ở chợ Thị Nghè, vợ cụ ngồi xổm nhiều nên cái bàn mông nẩy ra tròn trịa to như hai cái lồng bàn. Ở Việt Nam thì cái quần đen với cái áo bà ba che hết đi, qua Mỹ mặc quần jeans vào nó lồ lộ, khiêu gợi làm sao! Thế mà cụ Can’t Do lại cứ cố tình phớt lờ như thể cụ là một nhà hiền triết đạo mạo. Ngày nào cụ cũng tập Tai Chi cho cứng gân cứng cốt, mà hễ cứ gần vợ cả người cụ rủ nhau… mềm nhũn ra như bún. Lần nào vợ cụ cũng thở dài thườn thượt, bảo cụ chết quách cho xong. Nói vậy thì cụ mua bảo hiểm nhân thọ làm quái gì.
Nghe Hai Bò trình bày món ăn barbecue, cụ Can’t Do gạt phắt đi: “Miếng thịt barbecue là biểu tượng cái đầu óc thực dân, kỳ thị của người da trắng. Họ coi sự chinh phục những người bản xứ da đỏ là một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Món barbecue của người Mỹ thường là do các đấng mày râu đứng nướng để biểu lộ hùng tính và cương vị thủ lãnh của phái nam, nhắc nhở chúng ta hình ảnh các chiến sĩ xẻo thịt rồi xóc vào gươm mà nướng để khao thưởng sau các trận mạc. Nước Mỹ là nơi melting pot, Hợp chủng quốc. Món ăn tiêu biểu phải là hamburger, món thịt bằm hằm bà lằng. Người Mỹ ăn hamburger còn để nhắc nhở con cháu họ về cuộc chiến Nam Bắc phân tranh tương tàn. Tôi xin đề nghị món thịt băm hamburger”.
Bà Loan Tô, tên Việt là Tô Thị Loan, Mỹ đọc là Lôn To, được dịp đứng lên phát biểu. Bà này lại có chồng Mỹ da đen Frank Quaker, hỏa đầu quân của lính bộ binh Mỹ tham chiến thời trước. Nên tên bà nay có thêm họ Mỹ là Loan Tô Quaker. Mấy cụ trong lớp thì Việt Nam hóa tên bà là Lôn-To-Quá-Cỡ! Bà Lôn To phát biểu: “Dạ tui không biết nhiều về lịch sử Mỹ, chỉ biết ngày đầu tiên về nhà chồng được ông xã tôi cho ăn món Hot Dog. Tui thấy hot dog mới là biểu tượng đúng cho chức vị siêu cường quốc, hùng mạnh của nước Mỹ. Tui xin đề nghị Hot Dog, mà size loại Jumbo à nghen!” Bà Lôn To không phải nà Thanh Noan à nghen. Hìhìhì…
Bà cụ Ngà ngồi bên đắc ý hùa theo: “Cùng là bò mà thịt bò Mỹ nó khác thịt bò Việt Nam chị ạ. Để cả tuần trong tủ lạnh, bỏ ra nó cứ đỏ ửng lên. Còn thịt bò Việt Nam mình để từ sáng đến trưa nó tái hẳn đi như thịt trâu ấy”.
Các cụ ông… lấm lét nhìn nhau không biết bà cụ Ngà đang bàn về văn hóa của những miếng thịt hay nói xéo qua về những đồ gia dụng hằng ngày của… các cụ ông?
Cụ Quýnh trưởng ban tổ chức thấy mọi người nhao nhao lên, nên theo tinh thần dân chủ của Mỹ đề nghị là sẽ có cả 3 món barbecue, hamburger và hot dog. Ông Hai Bò lại có thêm ý kiến để có tinh thần Mỹ Việt đề huề, các món ăn trong thực đơn phải dịch ra tiếng Việt. Cụ Quýnh sẽ cho ghi bên cạnh: Barbecue (thịt nướng kiểu mọi), Hamburger (thịt bằm dập), Hot dog (thịt chó nóng).
Đã gần nửa đêm mà Cụ Phúc chưa thấy ai lên tiếng về phần món ăn Việt Nam. Có thể là vì người Việt mình ở Tây phương trong những xã hội tự do nhất hoàn cầu lại cảm thấy mình như côi cút, lạc lối, xa lạ cả với chính tình tự quê hương của mình. Từ xưa đến nay cụ vẫn tự hào về bản sắc văn hóa riêng biệt của người Việt. Ra ngoại quốc cụ thấy rằng cái mà xưa nay ta vẫn tưởng là Việt tính, nay chỉ còn lại chẳng bao nhiêu là Việt, mà tính cũng chẳng còn là bao; cái mà xưa nay ta vẫn tưởng là của ta, ngờ đâu chỉ là cái đàn cha, đàn chú, đàn anh của ta vay mượn từ lâu của ngoại nhân. Với cái hoang mang đó, cụ nghĩ đến câu văn hào Paul Valery nói: “Muốn biết văn hóa của giống dân nào thì cứ nhìn vào sinh hoạt hằng ngày của giống dân đó”. Cụ nghĩ nếu đãi khách bằng một món ăn có bản sắc dân tộc, biểu tượng cho người Việt thì phải chọn là món ăn gì? Không gì Pháp bằng crêpe, không gì Mỹ bằng hamburger, không gì Ý bằng pizza, không gì Đức bằng bratwurst, không gì Mễ bằng taco, không gì Nhật bằng sushi. Còn Việt nam là phở ư?
Ở bên này, cụ thấy hầu hết những đám cưới, đám hỏi người ta giữ đủ phong tục nghi lễ cổ truyền mà có đám nào đãi ăn phở đâu mà gọi là món ăn dân tộc? Hay là tại sao mình không tổ chức tiếp tân tại nhà hàng Tàu cho tiện?
Chỉ có thế thôi mà giông bão nổi lên trong phòng hội chỉ vì sự khủng hoảng về hiện tượng bám víu thê thảm vào cái tính đồng nhất riêng biệt của hành trang ý thức và tình cảm quê cha đất tổ.
Trời đã quá đêm…
Ánh trăng còn lại một chút trên khung cửa ẩm ướt hơi sương. Cụ Phúc vẫn còn nằm trăn trở không sao ngủ được…
Đòan Dự
No comments:
Post a Comment