Tuesday, April 21, 2015

I. Chính Danh của Ngày Quốc Hận 30 tháng Tư 1975 

Danh Chính là tên gọi đúng nghĩa [accuracy], sát với sự thật [truth], căn cứ vào thực trạng [reality]. Rõ ràng, ngày 30 Tháng Tư năm 1975 là một ngày lịch sử trọng đại. Không ai có thể chối cãi, gạt bỏ, nói ngược lại, hay quên đi. Đó là một ngày đáng ghi nhớ, đáng bảo trọng, học hỏi như một kinh nghiệm sinh tử tối trọng. Danh có chính, lời mới thuận, mới dễ thực thi.

1. Đối với Đảng CSVN và những Thành Phần Nhị Trùng, Cận Thị, Lú lẫn, Tự mãn

Đối với Đảng CSVN vừa đoạt quyền và những thành phần nội tuyến hay liên kết “giai đoạn” trên, Ngày 30 Tháng Tư được gọi là ngày vui của kẻ “thắng cuộc”. Nhưng thực sự đó lại là ngày liên hoan giả tạo trong một chuỗi dài thủ đoạn chính trị lừa đảo, bất chính:

 Thực sự, cuộc chiến Việt Nam (1955-1975) nằm trong “kế hoạch nô lệ hoá toàn cầu của cộng sản đệ tam quốc tế”. Hậu cứ cuộc chiến không phải tại Hà Nội, mà ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh;

 Hồ Chí Minh chỉ là một tay sai của khối cộng sản đệ tam quốc tế, phải tuân lệnh hay báo cáo với cấp trên, hoặc Staline, hoặc Mao. Chủ tâm ngược đãi, giết hại dân chúng nên Hồ Chí Minh chỉ là một tên “bạo chúa”, một “quân tàn tặc”.

 Kể cả “hư danh tướng” Võ Nguyên Giáp chỉ là người thi hành kế hoạch do cố vấn Trung Quốc Vy Quốc Thanh, Lã Quí Ba trong các cuộc chiến đánh thắng quân Pháp tại miền Bắc và mặt trận Điện Biên Phủ [1954]. Sự giúp đỡ của Trung Cộng còn tiếp tục trong cuộc chiến xâm lăng miền Nam [1963-1975].

Như vậy, ngày 30 tháng Tư 1975

 không phải là ngày “Giải phóng” Miền Nam Việt Nam vì Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam bị giải thể như một dụng cụ phế thải, không cần thiết sau khi hoàn tất sứ mạng giả tạo;

 không phải là ngày giành “độc lập” và “chủ quyền” vì đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1950 tới 1975 đã dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả nợ. Hậu quả là Việt Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ chính quyền đang mất dần vào tay Trung Cộng.

 cũng chưa phải là “Ngày Hoà Bình”, hoà giải dân tộc khi trên đất nước triệu triệu con người đi tù, đói khát, chọn lựa tẩu thoát bằng chân, bằng tàu bè, bằng nhiều cách tự sát, kể cả chọn cái chết liều lĩnh để thoát nạn trong nạn.

 và còn là ngày quân đội, cán bộ và nhân dân miền Bắc “sang mắt”, giác ngộ như cựu cán bộ CS nhà văn Dương Thu Hương đã phải khóc và công nhận “30 tháng Tư 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”; như các thế hệ trẻ miền Bắc đã bị Đảng lừa; như cựu thượng tá Bùi Tín, sau khi “đào ngũ” tại Pháp, cũng phải phát động xám hối: “Tôi bỏ hết danh vọng hão, chức tước phù du, huân chương mai mỉa, tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào dinh Độc lập sớm, xế trưa ngày 30-4, vớ vẩn lạc điệu cả, cá nhân lầm lạc, ngộ nhận hết. Để làm gì cơ chứ? Để đất nước ra nông nỗi này ư ? Độc lập, không! Tự do, không ! Chủ quyền, không ! Về mặt nào cũng đứng dưới 100 nước khác!”

Vậy đối với đảng CSVN tiếm quyền thực-dân thì ngày 30 tháng Tư đáng gọi là “Ngày CS Lừa Đảo Trường Kỳ”.

2. Đối với Hoa Kỳ

Trong cuộc Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ dùng Việt Nam làm thí điểm thực hiện Chủ Nghĩa Be-bờ [Containment Doctrine] để:

 bảo toàn an ninh cho khu vực và tránh cảnh các quốc gia tuần tự đổ theo “hiệu ứng Domino”, dưới áp lực cộng sản;

 làm hao mòn đối phương bằng một cuộc chiến ngăn chặn, đề phòng, hạn chế, kéo dài;

 Nhưng phương thức đấu tranh cho lẽ phải và hoà bình đôi khi quá đắt, quá đáng, và quốc sách bị mắc kẹt dưới áp lực chi phối và lạm dụng của cơ sở liên kết “Tập Đoàn-Kỹ Nghệ-Quân Sự” [Military Industrial Complex].

Với cái chủ tâm của Chủ Nghĩa Be-bờ trên:

 quân đội Việt Nam Cộng Hoà chỉ được phép “thi hành” một trận chiến phòng thủ, vừa tiêu mòn, vừa luộm thuộm, vì không ai [kể cả tướng tá Hoa Kỳ] có sáng kiến “đánh thực/thắng thực” [Không-Cốt-Thắng: “No-win policy”, như MacArthur than phiền thời chiến tranh Cao Ly/Triều Tiên]

 Tổng kinh phí của chiến tranh tại Việt Nam một lúc nào đó sẽ bị coi là quá đáng, quá mức chịu đựng của công quỹ Hoa kỳ. Dân chống đối, vì thuế cao, đời sống đắt đỏ. Một số chính khách đã cho rằng CS “thắng cuộc chiến tại Việt Nam trên đường phố Hoa Thịnh Đốn”. Thật vậy, Việt Nam đã mất vào tay CS ngay trong phòng sinh hoạt gia đình tại Hoa Kỳ, chứ không phải nơi chiến trường tại Việt Nam [Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam].

 Và khi tư bản Hoa Kỳ thấy hết lời, hết lợi ích đầu tư, họ rút vốn xoá bài, và mặt trận tiêu thụ nhu liệu đó chấm dứt cái một. Đó là lý do Hiệp Định Paris được ký kết một cách ép uổng [đối với VNCH] vào năm 1973 và sau đó mọi cam kết,
hứa hẹn trợ giúp quân sự, bảo trọng thành trì chống cộng tại Việt Nam cũng bị nuốt lời, tẩy xoá [viện cớ Hiệp Định Paris không được Thượng Viện Hoa Kỳ chuẩn chấp].

 Vậy Ngày 30 tháng Tư 1975, khi Đại sứ Graham Martin vội vã lên trực thăng tẩu thoát khỏi Sài Gòn thì thời điểm đó có thể gọi là “Ngày Tư Bản Hoa Kỳ Dẹp-Tiệm-Danh-Dự” trên mảnh đất Việt Nam thua lỗ, để Corporate America có dịp đầu tư vào Trung Quốc.

3. Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [VTNCS] tại Thế Giới Tự Do và Các Nạn Nhân Bị Kẹt Trong Nước

Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [VTNCS] là ai?

 Họ không phải là “Việt kiều”, người Việt ở nước ngoài, những di dân kinh tế, du sinh;

 Họ là gần 3 triệu người dân “Việt Tỵ Nạn Chính trị” [“political refugees”] bỏ trốn ra khỏi nước bằng đường bay, đường biển, đường bộ; đã từng chấp nhận mọi hoàn cảnh nguy nan, hãm hiếp, chết chóc, cốt để ra khỏi cảnh tù đày hay địa ngục trần gian của Bác và Đảng. Họ được xếp loại di dân đặc biệt, với những chứng minh thư như Parolee I-94, ODP, HO, chung gốc “political refugees”, hay “réfugiés politiques”, “exilés”, “diaspora”. Họ luôn luôn là Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vậy.

 Họ là những người Việt tứ xứ, có chung một đất nước, một chính thể tự do, bị CSVN đánh tháo từ Mùa Thu 1945, chiếm đoạt năm 1954, rồi 1975. Vậy những người VTNCS không phải là những người vô tổ quốc [apatrides], mà là những người có tổ quốc, nhưng tổ quốc của họ đã bị CS quốc tế cướp mất.

Vậy Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Thế Giới Tự do và Các Nạn Nhân Yêu Chuộng Bị Kẹt Trong Nước, ngày 30 tháng Tư 1975 phải là “Ngày Quốc Hận” vì:

 cảnh đau đớn, nhục nhã “mất nước” từ 1954;

 sự hãi hùng, oán hận trong “Tháng Tư Đen” 1975 khi người dân yêu chuộng hoà bình, cố gắng bảo vệ tự do trên mảnh đất nhân bản miền Nam Việt Nam thấy bị “đồng minh Hoa Kỳ” bội ước [breach of contract] trong “cam kết” be-bờ cộng sản, xây dựng dân chủ chân chính tại mảnh đất tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á;

 nỗi ân hận, tủi nhục khi lỡ tính, lỡ chân bị kẹt lại trong nước chìm đắm trong bể khổ của phản trắc: dân tộc bị nô lệ hoá, tù dày, ruồng bỏ, trường kỳ chậm tiến, đói khát, bóc lột, vô gia cư ngay tại xứ sở của mình.

Nếu muốn chuyển hoán nhóm chữ “Ngày Quốc Hận” của Ngày 30 tháng Tư sang ngoại ngữ thì phải cân nhắc, đi sâu vào ý nghĩa căn bản, vào cái tâm của ngữ cảnh [etymological context] đa nguyên, đa dạng trên. Đó có thể là những chữ ghép tương tự của “Vietnam Mourning Day”, “Fall of South Vietnam Memorial Day”, “Vietnam Calamity Remembrance Day” [Tưởng Niệm Ngày
Quốc Nạn], “Journée Vietnamienne de Deuil National”, hay gọn gàng, sắc bén là “Resentment Day” để ghi rõ sự ghét bỏ CSVN như một điều bất hạnh trọng đại; một tai ương ghê tởm về ý thức hệ thuộc tội phạm nhân loại.

Những từ ngữ hay dịch thuật như “Remembrance Day” [Ngày Tưởng Niệm] và “Ngày Diễn Hành Cho Tự Do (“March for Freedom”) lại có vẻ quá mông lung, không đủ tầm vóc so với cảnh khốn khổ, tận cùng bi đát của Ngày 30 tháng Tư tại Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. “Tự do” ư, “Mất Mát Được Đền Bù” ư: quá đắt đối với người thoát nạn [chết chóc, hãm hiếp, mất mát, hy sinh]; quá nhỏ so với hơn 80 triệu người Việt đau khổ, bị kẹt trong nước, đang khốn đốn, thất thểu, chịu cảnh tù đày, hủy hại dưới ách đô hộ dã man, quỷ quyệt của CSVN.

Muốn hiểu sự đau đớn, tủi nhục, ghê tởm của người Việt Tỵ Nạn CS và của toàn dân Việt Nam bị CSVN đô hộ, bị Trung Cộng doạ nạt, xúc phạm, hành hạ hằng ngày thì người Mỹ, người Âu Châu và người Do Thái phải vạch rõ, coi rõ, nhớ lại vết thương đau kinh hoàng của chính họ, của dân tọc họ. Đó là

Ngày Xâm Chiếm [Occupation Day] các Thủ Đô Âu châu bởi Đức Quốc Xả, bởi Nga Xô, trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến;

Holocaust của toàn dân Do Thái trên khắp thế giới;

Ngày Khủng Bố September 11 ngay tại thị trấn New York, ngay trong “lòng đất” của Hoa Kỳ.

4. KẾT LUẬN

Xin nhắc lại và nói thật rõ: Ngày 30 tháng Tư 1975 không hề giành lại độc lập và chủ quyền cho dân tộc, cho đất nước, khi đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1950 tới 1975 đã dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả nợ. Hậu quả là Việt Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ chính quyền đang mất dần vào tay Trung Cộng. Như vậy, không những chỉ người dân miền Nam Việt Nam — kẻ thua trận sau ngày 30 tháng Tư 1975 —, mà là cả dân Tộc Việt Nam đã và đang “mất nước”, mất tự do, hạnh phúc, an sinh, mất danh dự làm người có căn cước gốc Việt chân chính, tử tế, nhân đạo.

Sau 40 năm lang bạt khắp nơi trên thế giới, Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản và con cháu họ vẫn có đủ thẩm quyền lịch sử, truyền thống và pháp lý để nói mình “mất nước”, bị tước đoạt căn cước, thân phận và tài sản, và do đó có đủ tư cách kêu gào, công bố, nhắc nhở, bảo trọng “Ngày Quốc Hận”. Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử, dân tộc bị chết oan, tù đày, nô hoá mãi mãi phải được ghi nhận là một Quốc Nạn trong dòng lịch sử Việt.

Đến ngày nay, 40 năm sau ngày 30 tháng Tư 1975, đa số người Việt trong và ngoài nước không hề quên những tội ác của CSVN, những hành vi bất nhân, những bạo hành ám hại dân, phá hoại đất nước của một chế độ tồi tệ, gian ác, nhiễm trùng, nhiễm độc. Và đến ngày nay, đa số Người Việt Tỵ Nạn CS không hề a tòng với kẻ phạm pháp, và cũng không hề mong muốn Cộng Sản tiếp tục thao túng trên đất nước hay phá hủy dân tộc Việt Nam ở bất cứ đâu.

Đảng viên cộng-sản dù có đổi danh tính, tân trang căn cước hay nguỵ tạo nhãn hiệu thành đại gia, mafia tư bản đỏ, họ vẫn là tai ương nhân tạo, là tệ đoan xã hội, là nọc độc phải gạt bỏ. Chỉ khi CSVN cáo chung, khi toàn dân Việt Nam truy hồi lại đất nước, đòi được lại ranh giới, núi rừng, biển đảo; truy sách lại tài
sản, tự do, nhân phẩm ngay trên xứ sở mình; và dõng dạc tuyên bố trả lại sự thật cho lịch sử và tư tưởng Việt, chỉ lúc đó, giai đoạn đó mới hết có “Ngày Quốc Hận” trong tâm trí người Việt Nam.


Lưu Nguyễn Đạt, PhD, LLB/JD, LLM




Virginia, USA, April 11, 2015 [cập nhật]
[Translation by Phung Thi Hanh, M.A]


To give a legitimate name to an event, one must base on its accuracy, truth, and rightfulness. Undeniably, April 30th 1975 is a historic event. No one can refute, deny, nor forget it. It was an unforgettable day to be remembered for future generations to learn from. If the naming is truthful and accurate, then actions and
words will be well founded and legitimate.

1. Regarding the Vietnamese Rightfulness of April 30th, 1975
Communist Party and its affiliates

The Vietnamese Communist Party and its affiliates [puppets, temporary allies, double agents] called it “Liberation Day”, or “Victory Day”. But, in reality, it was only a fake success obtained through deceit and illegal political maneuvers.

 The truth is, the Vietnam War (1955-1975) was part of the “plan to enslave the world “ by the Comintern. Its headquarter was not in Hanoi, but Moscow and Peking.

 Ho Chi Minh was only a puppet of the Comintern and received direct orders from Stalin or Mao Tse Tung. Ho Chi Minh was an assassin cheating and killing his own people.

 Vo Nguyen Giap, the so-called “glorious general”, only followed plans drawn by Chinese advisors Vy Quoc Thanh and La Qui Ba in the Dien Bien Phu Battle. The Chinese Communists continued to give war aid during the invasion of South Vietnam that ended with the Fall of the South Vietnamese Regime in l975.

Therefore, April 30th 1975

 is not the Liberation of South Vietnam because the National Liberation Front was discarded like an obsolete tool when its “false mission” was over;

 is not Independence or Sovereignty Day because the Vietnamese Communist Party (VCP) has relied heavily on Communist China in the war against South Vietnam (1950-1975) and now has to pay its debt. The result is, Vietnam and
its own regime, its frontiers and coastlines, its territorial waters and islands, are slowly falling into the hands of Communist China.

 is not Peace or Reconciliation Day since millions of Vietnamese have been in captivity, millions and millions have chosen to flee the country and risk death rather than live under the communist hell.

In reality, it is the shameful day when the army, cadres, and the people from North Vietnam have realized that they have been duped. Former communist member and writer Duong Thu Huong cried and confessed — “April 30th 75: the Civil World was lost to the barbaric regime!”. Former Colonel Bui Tin after fleeing to France wrote “I have renounced all superfluous honors and glories,
shameful medals and now feel ashamed and useless for being the first to enter the Independence Palace in the afternoon of April.  Ridiculous, ignorant and foolish me! All that for what? So 30th that our country became as it is now? Independent? No! Free? No! Sovereign? No! We are in every aspect behind one hundred other countries.”

Therefore, for the Communist Regime, April 30th should be called the “Protracted Deceit Day” since the Communists have deceived everyone, even its own party members.

2. With regard to The United States of America

The US has chosen Vietnam as an experiment for its “containment doctrine” in its Cold War to:

 secure the areas and avoid other regimes from falling under the communist oppressions by the “domino effect”.

 wear out the enemies with a protracted war.

 but, the cost of this “experiment” was way too high and got stuck under the pressures and abuses of the “military industrial complex”.

Because of the “containment doctrine” policy,

 The ARVN was only allowed to wage a defensive war both tiresome and disorganized. No one, even American generals and advisors dare to have initiatives to fight to win — due to the “No-win policy” which Gen. MacArthur complained during the Korean War.

 The total cost of the Vietnam war at a time would be considered “too costly“. People opposed the war due to high taxes and anti war demonstrations marched down the streets. It was said that the Communists “have won the Vietnam war on the streets of Washington. Indeed, “Vietnam was lost in the living rooms of America–not on the battlefields of Vietnam”.

 Therefore, capitalist America saw no reason to invest in such a costly war. They withdrew their capitals, changed the “game” and the war ended at once! That was the reason the South Vietnamese government was coerced into signing the Paris Agreement in 1973 in which all promises of support and military aids were bluntly broken [excuse: The agreement was not ratified by the U.S. Senate].

On April 30th, 1975 when US Ambassador Graham Martin rushed to his helicopter to flee from Saigon, that day could be called “Out of Business & Retreat-in-Honor Day”. So that Corporate America could invest in China!

3. With consideration to the Vietnamese Refugees in the free world and the
Vietnamese still left behind

Who are the Vietnamese refugees?

 They are NOT “Viet Kieu” or Vietnamese living abroad, nor economic immigrants, nor foreign students .

 They are three millions “Vietnamese political refugees” who have escaped by any means, risking their lives so they don’t have to live under the diabolic Communist Regime. They are “special immigrants” with the status of “Parolee I-94”, “ODP“, or “HO”–all synonyms of “political refugees”, “diaspora”, and “exilés”. They are and will always be Vietnamese Refugees from Communists.

 They are Vietnamese from all walks of life with a same country, under a same free government which was cheated in the Autumn of 1945, defeated in 1954, and then ripped off in 1975. Therefore, the Vietnamese refugees are NOT “apatrides or stateless people”. They have a country and their country was robbed from them by international communists.

For the majority of the Vietnamese refugees in the free world and the Vietnamese victims still left behind in their country, April 30th 1975 should be “Ngày Quốc Hận” [“National Hatred Day”, “National Shame Day”, or “Vietnam Mourning Day”] because of:

 The hatred, pain, and shame to have “lost” their country since 1954;

 The fear, resentment, and anger of “Black April” of 1975 when the peace loving people of South Vietnam realized that their US allies have broken their “solemn” promises to protect the areas of SEA and to build in Vietnam a stronghold of democracy to fight against Communism;

 their regrets and sorrow to live in poverty and servitude, right in their own country.

To translate “Ngày Quốc Hân” of April 30th 1975 into different languages, one has to understand fully the etymological context and feel the complexity of the Event. It has the various meanings of “Vietnam Mourning Day”; “Journée Vietnamienne de Deuil National“; “Fall of South Vietnam Memorial Day”; “Vietnam Calamity Remembrance Day” (Tưởng Niệm Ngày Quốc Nạn) or briefly and more accurately, “VC Hatred Day” to commemorate the horrific
calamity the Vietnamese Communists have inflicted upon this country and its people.

 Words like “Remembrance Day” (Ngày Tưởng Niệm) or March for Freedom (“Ngày Diễn Hành cho Tự Do”) are too vague to express the magnitude of sufferings and pains the people of Vietnam felt on April 30th 1975.

To understand the magnitude of hurt and pain the Vietnamese refugees and the whole nation felt under the domination of the Communist Regime and China threat, Americans as well as Europeans and Jews should remember and relive their own horrible calamities:

– Occupation Day in Europe by Nazy Germany and Russia Soviet Union [USSR] before and after the Second World War;

–Holocaust for Jews in all over the world;

–And lately, September 11 right in New York, in the heart of America.

4. Conclusion

Let’s repeat clearly: April 30th 1975 has never brought back Independence nor Sovereignty to Vietnam. The Vietnamese Communist Party (VCP) has relied heavily on Chinese aid during the war and now has to pay its debt. The consequence is, the Chinese are slowly engulfing Vietnam, its frontiers and coastlines, its territorial waters and islands. Even the regime is under excessive
Chinese domination. Therefore, not only the citizens of South Vietnam–the “defeated”- but the whole nation of Vietnam has lost and is losing its country, freedom, honor and right to happiness.

After 40 years living all over the world, the Vietnamese refugees and their children still and should have the historic and legal right to claim that their properties have been stolen, their identities ripped off, and thus, shout out “Ngày Quốc Hận” and remind the world NOT to forget the horrendous tragedy inflicted upon their nation by the Vietnamese communists.

Indeed, on April 30th 1975, the Republic of Vietnam was coerced into a fatal end. Innocent people were wrongfully killed, jailed or deprived of their rights to live with dignity and to own property. These facts should be recorded as an
unprecedented National Calamity in the history of Vietnam.

As of today– 40 years after–the majority of Vietnamese in and out the country have not forgotten the horrific crimes the Communists have inflicted upon their nation. They have not forgotten the inhuman treatments of innocent people in the reeducation camps.

The Communist party and its members, whether they changed their identities into red mafia capitalists, they still and will remain the enemies of our societies; they will still be the poisonous elements we need to get rid of.

Only when the Vietnamese Communist Party is disintegrated, when the Vietnamese people regain their fatherland from the Communists and from China; when freedom and the right to happiness are given back to the people, only then “Ngày Quốc Han” —Calamity Day or Shame Day— is no longer in the mind of the Vietnamese people.




Virginia, USA, April 11, 2015 [updated]

No comments:

Blog Archive