MƯA SÀI GÒN...
- Trước năm 1975, Khu Cư Xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ, Sàigòn, nơi Công Tử Hà Đông sống mấy chục năm, mùa mưa đến thường bị ngập nước, khu nhà tôi sức mấy. Bây giờ Công Tử sống ở Virginia, Hoa Kỳ, nơi chàng vẫn gọi là Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, sức mấy mà mưa làm ngập lụt nơi chàng ở, còn tôi ở khu Nguyễn Thiện Thuật, Quận Ba, Sàigòn, mùa mưa đến khu nhà tôi nước ngập quá xá..
Đấy là lời Thuyền Trưởng Hai Tầu Văn Quang, người sống bền với Sàigòn từ năm 1954 và năm nay vẫn sống ở Sàigòn, viết trong bức thư mới nhất của chàng. Đúng thôi. Trước năm 1975, Thuyền Trưởng ngụ cùng nhà với ông Trung Tá Nguyễn Quang Tuyến, chức vụ cuối cùng của Trung Tá, tức đến 11 giờ trưa ngày 30 Tháng Tư năm 1975, là Quản Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa. Trung Tá Nguyễn Quang Tuyến là anh em cùng vợ – đúng ra là "anh em cùng nhiều vợ" – với Thuyền Trưởng Hai Tầu kiêm văn sĩ tiểu thuyết phơi-ơ-toong diễm tình Văn Quang Chân Trời Tiếm, Tiếng Khóc Học Trò. Nhà, phải gọi là tư gia, nâng bi là tư dinh, của Trung Tá ở trong Cư Xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận, Sàigòn, là nhà lầu, mới xây, đầy đủ tiện nghi, tô-lô-phôn, máy lạnh, phòng khách sa-lông Tây bọc da, phòng ăn bàn ghế gỗ cẩm lai, phòng ngủ kiểu Tây riêng biệt, có cửa đóng kín. Ba, bốn mươi năm xưa Cư Xá Chu Mạnh Trinh là một trong những cư xá khang trang, thanh lịch nhất Sàigòn, đặc biệt là cư xá ấy có nhiều văn nghệ sĩ cư ngụ nhất. Trước năm 1975 mỗi khi mùa mưa đến, Cư Xá Chu Mạnh Trinh chẳng bao giờ bị ngập nước. Nhưng đấy là chuyện trước năm 1975.
Trước năm 1975 Sàigòn của tôi rất đẹp, chỉ sau năm 1975 bọn Bắc Việt Cộng nón cối, giép râu, lính cái đít bự hơn cái thúng, khiêng ảnh Lão Già Hồ vào Sàigòn, Sàigòn của tôi mới xấu đi, mới bẩn đi. Trước năm 1975 mỗi năm khi mùa mưa đến với những trận mưa lớn đầu mùa – đồng bào tôi gọi là những "cây mưa" – mưa lớn quá nước mưa chẩy ra sông không kịp, Sàigòn của tôi cũng có vài con đường bị ngập nước, nhưng rất ít. Chẳng hạn như đường Lê Lai, nơi có tòa soạn nhật báo Ngôn Luận tôi thường đến hàng ngày, nhưng dù mưa có lớn đến đâu, dù có bị ngập nước mấy đi nữa chỉ hai giờ đồng hồ sau khi dứt mưa là đường Lê Lai lại khô ráo, sạch boong, nước đã rút hết. Thành phố Sàigon yêu thương của tôi chỉ bị nạn nước mưa ngập không thuốc chữa từ sau ngày bọn Bắc Việt Cộng vào chiếm Sàigòn.
Trước 1975 Trung Tá Nguyễn Quang Tuyến, Quản Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, ở nhà lầu, nhà lầu của ông, không phải nhà mướn, đi xe tu-bin Peugeot 504, hút thuốc điếu Winston, sài bật lửa gaz Dupont. Một tháng sau ngày 30 Tháng Tư 1975 ông xách túi, từ biệt bà vợ hiền – bà vợ hiền thứ tư của ông - ông theo tiếng gọi của cái gọi là "Ủy Ban Quân Quản", cái ủy ban mà người dân Sàigòn gọi là Ủy Ban Quanh Quẩn, ông lên đường đi "học tập cải tạo". Ngày xa xưa ấy, một sáng Tháng Năm năm 1975, chắc ông, cũng như nhiều vị sĩ quan quân đội tôi, nghĩ rằng ông chỉ đi xa tòa nhà lầu của ông trong cư xá Chu Mạnh Trinh nhiều lắm là một, hai tháng rồi ông lại trở về trong vòng tay ấm của bà vợ hiền của ông, vì vậy ông đi tù cộng sản mà ông mang theo cái bật lửa gaz Dupont và hai tuýp gaz Dupont dzin để sạc bật lửa!
Như thị ngã văn. Chuyện sĩ quan ta mang hôïp quẹt Dupont đi tù cải tạo là do chính ông Trung Tá kể cho tôi nghe. Nhưng sự đời thảm não tơ vương không có chuyện đi tù cộng sản rồi lại thơ thới trở về mái nhà xưa êm đẹp như ông Trung Tá quân ta tưởng. Bắc Việt Cộng nó cho ông đi tù mười mùa lá rụng. Khi ông trở về thành phố cũ, vỉa hè xưa, bà vợ hiền của ông đã đi một đường không sang sông mà là vượt biển tự bao giờ, tòa nhà lầu của ông đã bị bọn Bắc Việt Cộng chiếm mất, một thằng cán bộ Việt Cộng làm chủ ngang xương tòa nhà lầu của ông trong cư xá Chu Mạnh Trinh. Vắn tắt, tóm lại, đại khái cuộc sống của ông Trung Tá Nguyễn Quang Tuyến ở Sàigòn những năm 1986, 1987, 1990 không có một ly ông cụ nào khác với cuộc sống của không biết bao nhiêu ông sĩ quan quân đội tôi kẹt giỏ bỏ súng, bỏ lính, bỏ nhiệm sở, bỏ nhân dân, bỏ nước, chạy lấy người không kịp, bị bọn Bắc Việt Cộng nó bắt đi tù. Cuộc sống ấy đã được một ông Tầu từ mấy ngàn năm xưa miêu tả đầy đủ trong mấy câu : "Nhà mình người ở, xế mình người đi, vợ mình người chí chạt, con mình người đưa sang Kampuchia lấy xác bón cây thốt nốt.." Cuộc sống của các ông đen hơn mõm chó mực, đen hơn cái lá đa ca dao, rách, nát, bèo nhèo hơn cái mền Sakymen, xưởng máy bên Cầu Bình Triệu. Ông Trung Tá đi tù về trên răng dưới không có lựu đạn, quả đáng tội trên răng dưới ông cũng có đôi giép, không nhà, không vợ con - lại phải nói cho đúng ông có nhà, có vợ con, cái gì chứ vợ con thì ông có hơi nhiều, nhưng ông bị mất nhà, mất vợ con, ông về sống trong một nhà cho mướn ở đường Sư Vạn Hạnh. Căn nhà này có nhiều phòng nhỏ được làm để cho những em lấy Mỹ mướn những năm 1965, 1970. Năm xưa ấy khi chủ nhân căn nhà chia nhà ra làm nhiều phòng nhỏ chỉ là để cho các em lấy Mỹ mướn thôi, chủ nhà đâu có ngờ rằng chẳng mấy mùa cóc chín sau khi các em lấy Mỹ không còn khứa Mỹ nữa những căn phòng nhỏ đó lại có khách mướn. Lần này khách mướn không phải là Me Mỹ mà là các ông sĩ quan đi tù về. Hai ông Trung Tá ở chung một phòng, mỗi ông một cái giường sắt cá nhân, không ông nào có vợ con chi, bữa mô ông nào cần tiếp khách thì ông kia phú lỉnh đi khỏi phòng chừng ba, bốn tiếngđồng hồ mới về. Rồi ông Trung Tá dạt về sống trong Cư Xá Nguyễn Thiện Thuật. Mỗi năm mùa mưa tới, những cây mưa lớn đổ xuống Sàigòn, con đường Nguyễn Thiện Thuật nước ngập như sông, nước ngập cả ngày, cả đêm, 24 tiếng đồng hồ nước chưa rút đi hết, bọn trẻ nhỏ trong khu phố có dịp ở truồng chạy ra đường nghịch nước.
Sàigòn hiện nay có đến 100 chỗ bị ngập nước trong mùa mưa. Một chỗ ngập nặng là đường Trần Quốc Toản của ta, nay bị bọn Việt Cộng gọi bằng cái tên không giống con giáp nào là đường 3 Tháng 2. Đoạn đường này mỗi trận mưa lớn nước ngập lên cả thước. Nghe nói bọn Việt Cộng xây cái gọi là Nhà Hát Hòa Bình của chúng ngay trên cửa cống chính của đường Trần Quốc Toản, bít luôn ống cống nên đường này mới ngập nước nặng đến như thế. Năm nào trong mùa mưa cũng có cả chục người Sàigòn chết thảm vì bị nước cuốn vào những miệng cống.
Liêu lạc bi tiền sự... Sống buồn ở nước Mỹ, quê người Mỹ, chuyện mưa Sàigòn làm tôi nhớ Saigòn quá chời, quá đất. Bây giờ là Tháng Năm Tây, bây giờ là Tháng Tư Ta. Tháng Tư đầu mùa hạ, tiết trời thật oi ả...Năm nào Tháng Tư Ta Sàigòn cũng oi mưa, nóng bức, khó chịu đến mười lăm, hai mươi ngày. Rồi trận mưa đầu mùa đến Sàigòn, sấm vang, chớp giựt đùng đùng, loe lóe, đất trời Sàigòn chuyển động,nháng lửa, gió lớn, cây lá vặn mình, những đường dây diện Sàigòn đong đưa nhẩy tuýt, cả thành phố nín thở chờ đợi, bầu trời vỡ bung, nước đổ xuống sầm sập. Mưa..! Mưa..! Không khí nhẹ đi. Mát rượi. Người Sàigòn thở ra khoan khoái. Ôi.. phải được sống ở Sàigòn người Việt Nam mới có cái thống khoái chờ, và thấy, và hưởng cái khoái lạc khi cơn mưa đầu mùa đổ xuống...
Những cây mưa đầu mùa Sàigòn...! Những năm 1960 tôi từng viết: "Sàigòn sau cơn mưa lớn sạch như người đàn bà đẹp mới tắm xong..." Từ ấy đã bốn mươi mùa mưa đi qua cuộc đời, những nàng trinh nữ năm ấy nay đã thành những bà cụ già, nhiều nàng có thể còn đa tình, trái tim còn sống mạnh nhưng già thì các nàng vẫn già, hôm nay nhớ lại tôi lấy làm lạ tại sao một anh cả đẫn ngớ ngẩn như tôi lại viết được một câu gợi cảm đến như thế về thành phố Sàigòn của tôi sau cơn mưa lớn:"Sàigòn sau cơn mưa lớn sạch như người đàn bà đẹp vừa mới tắm xong!" Mai sau nếu có chàng trai hào hoa, phong nhã nào ngửi da thịt người đàn bà chàng yêu thương vừa mới tắm xong, thơm phức, và nói: "Em sạch như thành phố Sàigòn sau cơn mưa lớn..." thì một nửa câu nói tình tứ ấy là của tôi!
Ở đây thép rỉ, son mòn...Xa quê hương, tôi nhớ những mùa mưa tôi nằm trong phòng tù Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu ở quê hương tôi.
Những phòng tù Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, bốn tường kín mít, mái tôn, không có trần, nhốt 20 người đã khó thở nhưng nhồi nhét đến 40 người tù. Những tháng mùa nắng phòng tù nóng như lò nướng bánh mì. Bọn tù chúng tôi rôm sẩy đầy mình, nải chuối sứ hãy còn xanh được treo trên tường phòng tù chỉ sau một đêm chịu hơi người sáng hôm sau đã chín vàng rọm. Trận mưa lớn đổ xuống, có tên cai tù tốt bụng mở cửa phòng tù cho tù chạy ra sân tắm mưa ở ống máng, chỉ hai phút tắm mưa bao nhiêu rôm xẩy lặn hết.
Tôi nhớ những trận mưa lớn ở Nhà Tù Chí Hòa.
Nhà tù Chí Hòa có nhiều chuột cống. Bọn chuột cống biết bọn tù chúng tôi bị nhốt trong phòng, không động được đến cái chân lông của chúng được nên tối xuống, khi cửa sắt hành lang đã đóng, đã khóa, bọn chúng đàng hoàng kéo nhau ra hành lang, đưổi nhau, đùa rỡn, nhẩy măm-bô, nhót tăng-gô, nựng nhau, cắn nhau, bọn tù chúng tôi đứng sau hàng song sắt suỵt suỵt dọa nạt chúng, chúng tỉnh queo, chúng coi như pha, chúng không thèm chấp. Chúng còn dương mắt nhìn chúng tôi khinh bỉ, chúng tôi nghe tiếng chúng nói: "Chúng mày tù, chúng mày làm gì được chúng ông? Suỵt soạt ký gì?" Nên khi cơn mưa đầu mùa đổ xuống, nước thoát đi không kịp, các ống cống đầy nước, bọn chuột cống phải chạy lên sân nhà tù, chúng tôi thích thú khi thấy anh em tù nhân được ra làm những việc chia cơm, quét dọn, vây đuổi đập chết cả mấy chục con...
Và sau những trận mưa lớn đầu mùa, đêm xuống, nằm thao thức không ngủ được trên nền xi-măng phòng tù Chí Hòa, tôi ngạc nhiên nghe tiếng ếch nhái kêu vang suốt đêm. Tôi tự hỏi trong cả bẩy, tám tháng trời nắng nóng vừa qua, bọn nhái bén, chẫu chàng, chẫu chuộc trốn nấp ở đâu, làm sao chúng sống qua cả bẩy, tám tháng trời nắng nóng để đêm nay, trời vừa đổ cơn mưa lớn, chúng kéo nhau lên mặt đất đồng ca vang rân như thế?
Tôi nhớ mùa mưa thứ nhất tôi nằm trong sà-lim số 15 Khu B Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu. Mùa mưa năm 1977, đây là những tháng thứ nhất tôi bị tù trong đời tôi. Một đêm mưa lạnh, không ngủ được, tôi làm thơ:
Nằm trong khám tối âm u
Buồn nghe đêm lạnh sương mù sa mưa
Bồi hồi tưởng mái nhà xưa
Ngày đi đã nát, bây giờ ra sao?
Thương Em nhạt phấn, phai đào
Đêm đêm trở giấc chiêm bao một mình.
Ngủ đi Em, mộng bình minh
Mưa bao nhiêu giọt là Tình bấy nhiêu.
Một đêm mưa năm 1976 tôi trên xe đạp đi lang thang trong thành phố không đèn tối đen, tôi làm thơ:
Ở đấy mộ người toàn cỏ trắng
Riêng mộ người yêu cỏ sắc xanh.
Đêm mưa, đèn tắt, thành xưa vắng
Thương nhớ tình ta chỉ một anh.
Em đi mùa ấy mưa hay nắng?
Đời vắng khanh đời chỉ nhớ khanh.
Lầu vàng, nhà cỏ rồi yên lặng
Phố chợ, rừng hoang cũng vắng tanh
Người yêu, người ghét đều quên lãng
Chẳng còn anh cũng chẳng có em
Mồ em cỏ ấy vàng hay trắng?
Anh biết mồ anh cỏ sắc xanh!
Em yêu dấu..Anh kể Thơ Mưa của những thi sĩ chính hiệu con nai vàng em nghe nhé. Thơ Việt của chúng ta có nhiều Thu và Mưa. Trong Thơ Ta Mưa cũng nhiều nếu không nói là nhiều hơn Thu. Thuyền Trưởng Văn Quang nhắc đến bài Thơ "Mưa Sàigòn, Mưa Hà Nội" của Thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, Thơ do Nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ nhạc:
Mưa hoàng hôn, trên thành phố buồn, gió heo may vào hồn
Thoảng hương tóc em ngày qua
Ôi người em Hồ Gươm về nương chiều tà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ hiền hòa
Thương mầu áo ngà. thương mắt kiêu sa, hiền ngoan thiết tha...
Thơ ngây đôi má nhung hường
Hà Thành trước kia thường thường về chung lối đường
Khi mưa ướt lạnh mình chung nón dìu bước thơm phố phường...
Mưa ngày nay như lệ khóc phần đất quê hương tù đày
Em ngoài ấy còn nhớ hẹn xưa miệt mài?
Giăng mắc heo may! Sầu rơi ướt vai, hồn quê tê tái...
Mưa mùa thu, năm cửa ô sầu hắt hiu trong ngục tù
Tủi thân nhớ bao ngày qua
Mưa ngùi thương nhòa trên giòng sông Hồng Hà
Ôi còn đâu vàng son mùa thu hiền hòa
Đau lòng Tháp Rùa, Thê Húc bơ vơ, Thành Đô xác xơ
Cô liêu trong nỗi u hoài, lòng người sống lạc loài, thê lương mềm vai gầy
Bao oan trái dâng lên tê tái, cho kiếp người héo mòn tháng ngày
Mưa còn rơi, ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời
Vang trời tiếng cười, ấm niềm tin hồn người, mây trắng vui tươi
Tình quê ngút khơi, Tự Do phơi phới...
Bài thơ trên đây được đặt tên là "Mưa Sàigòn, mưa Hà Nội" nhưng cứ theo như ý ngu không có một su teng văn nghệ, văn gừng nào của tôi thì nó chẳng có một ly ông cụ nào là "Mưa Sàigòn", nó chỉ là "Mưa Hà Nội". Năm xưa ấy, năm 1956, khi thi sĩ sáng tác nó, có thể vì ông sống ở Sàigòn mà mần thơ nhớ riêng mưa Hà Nội trong khi Sàigòn cũng có mưa mà ông không nhắc nhở gì đến Mưa Sàigòn cả, sợ chuế nên thi sĩ móc ba tiếng "Mưa Sàigòn" vào cho bài thơ có tí mầu sắc Sàigòn. Cũng dễ hiểu thôi, năm 1956 đất nước ta mới bị chia cắt, thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương còn trẻ, hai ông mới xa Hà Nội của hai ông có hai niên nên hai ông nhớ thương Hà Nội của hai ông. Hai ông cảm khái nên ông ni mần thơ, ông kia phổ nhạc bài thơ nhớ thương Hà Nội đó. Hai mươi năm sau, năm 1975, người ta thấy cả hai ông – thi sĩ, nhạc sĩ – không ông nào còn nhớ thương Hà Nội nữa, khi có thể về thăm lại "Thành Đô yêu mến.." hai ông bỏ chạy có cờ!
Trở lại với Mưa trong Thơ, với Thơ Mưa, em yêu dấu, anh kể một lô Thơ Mưa em nghe nhé!
Đây là Thơ Mưa Trần Huyền Trân:
Mưa bay trắng lá rau tần
Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa.
Có người về khép song thưa
Để rêu ngõ trúc tương tư lá vàng.
Ta trở về đây không gối chăn
Một mình ly rượu rét căm căm
Không là lính thú sầu lên ải
Cũng thấy lòng chia dưới cát lầm.
Nhớ lại mùa mưa những thuở nào
Rượu rồi nâng cổ áo lên cao
Dăm ba mồi thuốc đi chung bóng
Lòng chép cho lòng bao chiêm bao;
Lên thang nghe gió nhủ, mưa thầm
Gác trọ không đèn hết cố nhân...
Thi sĩ không là lính thú sầu lên ải, mà cũng thấy lòng chia dưới cát lầm. Tôi không phải là thi sĩ nhưng ở xứ người đôi khi về nhà khuya lên thang gác tôi cũng nghe gió nhủ, mưa thầm, cả những đêm trời Mỹ không mưa gió, tôi cũng nghe tiếng gió nhủ, mưa thầm vang lên trong trái tim tôi, chỉ có điều là ở nước Mỹ tôi lên thang nghe gió nhủ, mưa thầm, gác trọ sáng đèn nhớ cố nhân!
Vài dòng Mưa nữa trong Thơ Trần Huyền Trân:
Phải đây mùa nhớ thương nhau
Chim ngoài ngọn gió, mưa đầu cành mưa
Biết yêu thì khổ có thừa
Hình dung một thoáng, tương tư chín chiều
Xa nhau gió ít, lạnh nhiều
Lửa khuya tàn chậm. mưa chiều đổ nhanh
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ, nghe tình người ta
Đêm về hương ngát bên hoa
Tỉnh ra thì lại vẫn là chiêm bao.
Đưa người ta không đưa qua sông, sao có tiếng sóng ở trong lòng. Bóng chiều không thắm, không vàng vọt, sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? Thi sĩ Thâm Tâm tự hỏi như thế. Thâm Tâm chỉ để lại cho đời ba, bốn bài thơ, bài nào cũng làm tôi cảm khái. Đây là Mưa trong Thơ Thâm Tâm:
Ngoài phố mưa bay, xuân bốc rượu
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê
- Ới ơi..bạn tác ngoài trôi giạt
Chẳng đọc thơ ta tất cũng về!
Không nhớ bài thơ dưới đây của thi sĩ nào:
Nửa khuya tỉnh giấc lòng đau
Nửa mong tảng sáng, nửa cầu thâm khuya.
Tiếng chuông ở giáo đường kia
Hay trong chùa nọ, sầu chia sang người.
Biết mưa đang đổ nên lười
Nằm nghe lá rụng tơi bời rung cây.
Em ơi...Buồn lạnh thế này
Cùng ta chẳng có một ngày nằm đôi...
Ối giời ơi... Cơm nhà, quà vợ như tôi, chân chính, thuần thành, thâm niên, trung kiên, tuyệt đối... Dzậy mà đọc bài thơ trên tôi cũng muốn kêu toáng lên...Em ơi... Buồn lạnh thế này... Cùng ta chẳng có một ngày nằm chung, xin lỗi, nằm đôi. Chít mất!
Mới đây một bạn đọc viết cho tôi:
- Đọc đoạn ông tả cuộc chia tay với người đẹp độc giả buổi trưa đường Thống Nhất Sàigòn, nắng vàng lung linh, tôi cảm khái cách gì...
"Cảm khái cách gì.." Bạn ơi..Đọc chuyện tôi bạn "cảm khái cách gì", tôi đọc hai câu Thơ "Em ơi buồn lạnh thế này..Cùng ta chẳng có một ngày nằm đôi.." tôi cũng "cảm khái cách gì.." Mèn ơi..! Cảm khái quá đi mất! Cảm khái ơi là cảm khái.
Giời mưa ướt áo làm gì..?
Năm mười bẩy tuổi chị đi lấy chồng
Tuổi son má đỏ, môi hồng
Bước chân về đến nhà chồng là thôi
Hôm qua mưa gió đầy trời..
Thơ Nguyễn Bính có nhiều Mưa:
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng...
Huế có nhiều thi sĩ, tôi thấy Thi sĩ Bắc Kỳ Nguyễn Bính làm Thơ Mưa Huế tuyệt nhất:
Mấy tuần ròng rã gió mưa
Bên lầu đò lạnh, gió lùa nước dâng.
Ngược xuôi, mưa gió dãi giằng
Nằm đây nhớ nửa vầng giăng chốn nào.
Mưa rào rào, gió ào ào
Trùm chăn say khói thuốc lào đê mê.
Học sinh mấy buổi đi về
Quần cao, nón thấp ê chề gió mưa.
Giời mưa ở Huế sao buồn thế
Cứ kéo dài ra đến mấy ngày..
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say.
Nón lá, áo tơi ra quán ruợu
Chơ vơ trên bãi nước sông đầy...
Sầu nghiêng mái quán, mưa tong tả
Chén ứa men lành, lạnh ngón tay.
Ôn lại những ngày mưa gió cũ
Những chiều hành viện, những đêm say...
Và Nguyễn Bính làm thơ ở Nam Kỳ:
Những ai đan áo ngự hàn ngày xưa
Những ai mảnh quạt đề thơ
Nam Kỳ cũng gió, cũng mưa
Đêm đêm đắp đổi cũng vừa chăn bông.
Mình đi trăm núi, ngàn sông
Ngờ đâu mang cả lạnh lùng sang Nam...
Những ai đón bạc, đưa vàng
Những ai ai đó, bây giờ những ai..?
Há rằng uổng một đời trai
Quyết tâm phá bí, ai dè vẫn thua.
Đến đây đường khóc cùng đồ,
Phải đâu Ba Thục hay bờ Ô Giang?
Đèn chong lụi cả canh tàn
Ngoài sông ai đó quá giang gọi đò.
Hỡi người đi gió, về mưa
Có gây dựng nổi cơ đồ gì không?
Đã đành nhớ núi, thương sông
Nằm đây xa cách muôn trùng ải quan...
Một thân lận đận nơi trời xa
Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà
Gió bắt vào thu đầy tiếng lá
Đời tàn mộng đẹp, tiếc xuân qua
Long tong mưa nhỏ gieo từng giọt
Ắng lặng không nao một tiếng gà
Chờ nửa vầng trăng, trăng chẳng lại
Đêm dài đằng đẵng, đêm bao la
Cũng may cho những người lưu lạc
Càng khỏi trông trăng, đỡ nhớ nhà...
Em ơi..Anh đưa em sang Thơ Mưa Huy Cận:
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời lành lạnh, nghe ta buồn buồn
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
Rơi rơi, dìu dịu, rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ
Tương tư hướng lạc, phương mờ
Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe
Gió về lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bồn bề tâm tư.
Người ở bên trời, ta ở đây
Chờ mong phương nọ, nhớ phương nầy
Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm
Vạn lý sầu lên, núi tiếp mây
Nắng đã xế về bên xứ bạn
Chiều mưa trên bãi nước sông đầy.
Trông vời bốn phía không nguôi nhớ
Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.
Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày
Chiếu chăn không ấm người nằm một
Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay.
Em ơi... Đến đây là những dòng Thơ Mưa anh cảm khái suốt một đời: Thơ Mưa Vũ Hoàng Chương
Đàn rưng rưng lệ, phách dồn mưa
Tiếng hát tàn rơi hận thuở xưa.
Bụi nhuốm Thiên Thai mờ hứng ruợu;
Đời sau say giúp mấy cho vừa!
Cô đơn men đắng sầu trăng bến
Đất trích Tầm Dương quạnh tiễn đưa.
Nhịp đổ càng mau nghe ríu ríu
Tê rời tay ngọc lúc buông thưa.
Tóc sõa tơ vàng nệm gối nhung
Đây chiều hương ngát lả hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ chồng.
Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh, nắng hoa gầy
Nắng mưa đã trải tình nhân thế
Lưu lạc sầu chung một hướng say.
Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai
Ra đi chẳng hứa một ngày mai
Em ơi lửa tắt, bình khô rượu
Đời vắng em rồi, say với ai?
Ôi thân mến! Nhắc làm chi thuở ấy
Đêm nay đây hồn xế nẻo thu tàn..
Khóc chia lìa, ai níu gọi than van?
Ta chỉ biết nằm nghe tình hấp hối.
Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối
Mưa. mưa hoài! Rượu chẳng ấm lòng đau.
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay mầu đôi mắt biếc?
Chao ôi..Cơm nhà, quà vợ từ hằng hà sa số kiếp, một chai la-ve 33 ăn nói đã loạng quạng, vậy mà cũng hiu hiu tiêu sái gõ nhịp sầu ca "Em ơi lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi, say với ai..?" Cả đời chỉ biết có một người đàn bà, vậy mà cũng "..Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau..Vàng son có thay mầu đôi mắt biếc..?" Cảm khái cách gì!
Còn nhiều dòng Thơ Mưa Vũ Hoàng Chương nhưng đêm có khuya, ngày có rạng, người viết dù hứng khởi, dù cảm khái, bài viết cũng không thể quá dài, trang báo có hạn, trang báo còn phải dành cho bài viết của người khác và cho quảng cáo, em cùng anh sang Thơ Mưa Đinh Hùng:
Tình đến bên người, núi chắn ngang,
Tà dương mái tóc ngút mây vàng
Bỗng nghe lạc trận mưa ngàn đổ
Cả một mùa thu đã quá giang...
Sóng tóc rừng mưa gợn trập trùng
Nghẹn ngào từng tiếng nấc thu không
Sương pha áo mỏng, gầy non bạc
Chiều lặng soi gương, xót má hồng.
Chiều lại chiều mưa, nước ngập đồng
Mộng vàng hoa mướp rụng ven sông
Đợi em từ mấy phương bèo rạt
Mưa lọt chiêm bao, tóc rối bồng.
Giấc mộng đêm nào cũng gió mưa
Gối chăn như hải đảo vô bờ
Sóng dâng hồn vách sầu nghiêng bóng
Thoáng ngọn đèn trôi ánh mắt xưa.
Mênh mang sóng mắt
Ngờ biển dâu
Núi non nhìn ta vừa nghiêng đầu
Hình như hội ngộ
Từ ngàn thâu.
Ta tỉnh hay mơ? Chiều nay trăng khép
Hàng mi sầu
Hay tà dương thu
Mưa rơi mau?
Thơ của ai tôi cũng có thể phụ đề Việt ngữ, thường là tâng bốc, suýt xoa, hít hà hay quả là hay, hay quả, quả hay, cảm khái ơi là cảm khái, đến Thơ Mưa Đinh Hùng thì tôi thôi không ca tụng nữa. Ca tụng, tâng bốc là thừa.
Giữa đêm lòng bỗng hoang vu
Gối chăn nghe cũng tình cờ quan san.
Bước thu chừng sớm lìa ngàn,
Nhớ giây nguyệt lạnh, cung đàn thương hoa.
Em về rũ tóc mưa sa
Năm canh chuốt ngón tỳ-bà khói sương.
Rời tay nhịp phách đoạn trường
Hồn đêm nay thấm mùi hương năm nào?
Sầu che nửa mặt chiêm bao,
Dòng mưa, thu lệ chìm vào phấn son.
Nét mày cong vút núi non,
Mông mênh xiêm trắng linh hồn vào thu.
Có kẻ nghe mưa trạnh mối sầu
Vắt tay nằm mộng suốt đêm thâu.
Gió từ sông lại, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu?
Tôi ngủ bâng khuâng một gối buồn
Giường lênh đênh nổi giữa băng sơn.
Xoay mình giận mảnh chăn hờ hững.
Tuyết phủ, sương dâng một nửa hồn.
Người ta xa lánh cả tôi rồi!
Trở gối, nghe hồn động biển khơi.
Xa bạn, xa lòng, xa mắt đẹp,
Gió mưa dòng tóc, đắng vành môi.
Dĩ vãng dầm mưa lén bước về
Áo trùng, mây tỏa, mặt sầu che.
Run tay ấp nửa bàn chân lạnh
Thương những con đường mưa cuốn đi
Bài viết đã dài mà Mưa còn nhiều. Đành ngừng ở đây thôi. Ngừng nhưng còn tiếc nên Mưa thêm vài cơn Mưa nữa..
Những Thơ Mưa trên đây đều là Thơ Mưa trước năm 1975. Từ ấy, tức từ năm 1945 đến nay, ta có Thơ Mưa Quang Dũng:
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài.
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai?
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
Bên này em có nhớ bên kia?
Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến
Hiu hắt chiều sông lạnh bến tề...
Em nhớ không em, những tiếng Ca Mưa chúng ta cùng nghe ngày xưa khi chúng ta còn trẻ:
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu?
Sao còn đứng mãi nơi giang đầu?
Và:
Em đến thăm anh một chiều mưa, đường trơn ướt tiêu điều..
Em đến thăm anh chiều đông giá, em đến thăm anh chiều mưa gió, đường xa lạnh lùng..
Và:
Mưa rừng ơi mưa rừng..
Những lời Ca Mưa chìm trong dĩ vãng nhạt nhòa, hình ảnh Sàigòn trong mưa thấp thoáng hiện về, cả thành phố trắng xóa nước mưa, Sàigòn dưới cây mưa như người đàn bà đẹp nằm chịu cơn lạc thú, cây mưa đầu mùa Sàigòn như gã đàn ông quằn quại trên thân thể người đàn bà đẹp, những con đường ngập nước như những dòng sông.
Mưa ở Sàigòn mới là mưa. Tôi không biết ở những nơi khác ra sao, tôi thấy mưa Virginia không trận nào ào ạt lớn, mạnh, đại lượng, ban phát khoái lạc, oai nghiêm như những trận mưa ở Sàigòn, nhất là những trận mưa đầu mùa mưa, như những trận mưa đang đổ xuống Sàigon tháng này.
Đành phải tạm ngừng thôi..
Mưa, mưa hoài! Rượu chẳng ấm lòng đau
Gấm the nào từ buổi lạnh lùng nhau
Vàng son có thay mầu đôi mắt biếc?
Em về rũ tóc mưa sa
Năm canh chuốt ngón tỳ-bà khói sương
Gió từ sông đến, mưa từ biển
Không biết người yêu nay ở đâu?
Gió từ sông đến, mưa từ biển..Không biết người yêu nay ở đâu? Cảm khái cách gì!
CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG
Tuesday, May 18, 2010
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Blog Archive
-
▼
2010
(141)
-
▼
May
(28)
- Tỵ Nạn chính trị lại muốn không làm chính trị... ...
- Vài nét về tác-giả bộ tiểu-thuyết gián-điệp Z28 A...
- Sharing great tipsHousehold Tips & TricksAnt Repel...
- Khi Bài Hát Trở Về Trần Trung ĐạoNếu phải xếp hạng...
- BAN VIỆT NGỮ ĐÀI BBC VÀ CỘNG SẢN VIỆT NAMNguyễn Tư...
- Câu chuyện Tù ..rất lâm ly nên đọc ..để suy nghĩ v...
- Tuấn Khanh - Những tình khúc tha thiết nhưng dịu d...
- MƯA SÀI GÒN...- Trước năm 1975, Khu Cư Xá Tự Do, N...
- Thằng ăn cắpỞ một làng nào đó bên xứ Ấn Độ, có một...
- H.T. THÍCH TÂM CHÂU NÓI GÌ VỀ TRÍ QUANG VÀ PHE ẤN ...
- “Đệ Nhất Phu Nhân”… không ngai!Lời mở đầu=========...
- Một Đội Quân Bị Quên LãngAndrew WiestTrước hết xin...
- The Amazing CucumberThis information was in The Ne...
- Chuyện Một Chiếc CầuTrần Việt TrìnhNăm nay, để đán...
- Sài Gòn Ngày Dài Nhat Duyên Anh Tôi không hiểu, ...
- Y VÂN VÀ MẸ- Ai là người Việt Nam mà không biết bà...
- LẠI CHUYỆN BẠC ĐẦU, ĐEN ÓC !LÃO MÓCĐài BBC tiếng V...
- Còn một chút gì để nhớNhữ Đình HùngĐây không phải ...
- NGÕ TRÚC Phong VũBước qua hết chiếc cầu xi măng, b...
- MỘT MÙA TRỌ HỌC HUY VĂ...
- VÀI LỜI THÔ THIỂN NHÂN BÀI VIẾT VỀ TRỊNH CÔNG SƠNT...
- Operation Passage To Freedom * Vai trò Hải Quân Ho...
- Những điều chưa biết về quả đu đủNgọt ngào, căng m...
- Cộng Sản Nghĩ Sao Về Tổng Thống Ngô Đình Diệm? ...
- Ði “thăm” một vị tướng anh hùng QLVNCH(Nguyễn Khoa...
- Hậu Quả Của Việc Hoa Kỳ Bỏ Rơi Đông DươngGiáo sư R...
- TƯỚNG TED SERONG (1915-2002): MỘT ANH HÙNG VÔ DANH...
- Việt Kiều và "Bầy heo " của George Orwell ...
-
▼
May
(28)
No comments:
Post a Comment