Tuesday, February 10, 2009

LẠM BÀN VỀ CHUYỆN “BÀ CỐ”

*Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC

Bút Xuân đã đọc truyện ngắn “Bà Cố” của Văn hữu Duyên Lãng Hà tiến Nhất, đăng trên tiengnoigiaodan.net Một câu chuyện thực, khá hay được lột tả bằng ngòi bút rất linh động của tác giả Duyên Lãng, một câu chuyện mà nếu không đọc, Bút Xuân nghĩ rằng nó không có thực.

Trong câu chuyện, tác giả muốn nhấn mạnh vài điểm chính yếu ấy là cái danh xưng trong xã hội Việt Nam ta và thứ hai, cái lòng tôn thờ chủ nghĩa “cứu cánh biện minh phương tiện” (La fin justifie les moyens) nhưng vì dưới dạng một truyện ngắn, tác giả chỉ có thể nói phớt qua. Bút Xuân sẽ đào sâu thêm những khía cạnh đó dưới dạng một bài tham luận như bạn đang đọc.

Trước khi đi vào từng đề mục, Bút Xuân, xin minh định một điều. Những danh từ “cha” do tác giả Hà tiến Nhất dùng trong truyện là chính xác với câu chuyện, nó được nói ra từ miệng những nhân vật trong truyện, sống, có thực. Tuy nhiên khi cá nhân Bút Xuân đề cập tới những giáo sĩ đã lãnh bảy chức thánh, Bút Xuân chỉ dùng danh xưng “linh mục” cao quí và đúng nhất. Trước đây, Bút Xuân đã nhiều lần minh định rằng chỉ có Thượng Đế sinh ra muôn vật, đấng vô hình vô ảnh, tòan năng hằng hữu, là Cha chung mọi lòai thụ tạo, Bút Xuân mới gọi là “Cha”. Một người nữa hữu hình, sinh ra thể xác, tinh thần Bút Xuân là chính “Cha” đẻ ra Bút Xuân, góp phần cùng với mẹ Bút Xuân. Ngòai ra không còn ai là cha của Bút Xuân nữa dù cho linh mục Ngô...gây Hấn có đe nọc ra giữa nhà thờ đánh đòn và rao tên trên tòa giảng thì Bút Xuân vẫn giữ y nguyên lập trường, không thay đổi.

DANH XƯNG QUAN TRỌNG NHẤT
Một câu chuyện bình thường nhưng tác giả Duyên Lãng đã làm cho nó có sức thu hút mạnh mẽ. Một thiếu niên được gửi vào chủng viện tu tập, học văn hóa, rồi thần học, xong chịu chức Linh mục, làm lễ mở tay ...là chuyện rất bình thường, người Công giáo có lẽ ai cũng biết điều đó. Nhưng chuyện tu tập rồi thành Linh mục như chuyện thầy Sáu Hóa, nhân vật chính của chuyện “Bà Cố” lại không giản dị như thế. Nó có nhiều khúc mắc, rối rắm, nhất là ở đọan kết khi bà cố Chiến - mẹ thầy Sáu - ngồi bàn với thầy làm sao để có 12,000 đôla nộp cho thành ủy (Cộng Sản) để cơ quan quyền lực này đồng ý cho thầy Sáu thụ phong linh mục! Khi đã tìm bới tất cả những nguồn có thể có tiền để vay nhưng không được, kể cả bà cố mẹ nuôi là cụ Nghị đang ở bên Mỹ vì cụ Nghị vẫn gửi hàng tháng lại vừa mới gửi một ít cho thầy Sáu Hóa xong. Chúng ta hãy nghe lại mẩu đối thọai:

Bà cố Chiến hỏi con là thầy Sáu Hóa:
-Việc này rồi thầy tính sao đây?
Thầy Sáu Hóa trả lời:
-Tùy má thôi chứ con biết tính sao bây giờ.
- Việc của thầy mà thầy bảo tùy má là tùy thế nào?
-Hay là con xin đức cha cho phép chờ cho đến khi nào có tiền thì hãy truyền chức?

Bà cố Chiến nghe giận quá ngồi im một đống.
- Hay là mẹ cầm tạm căn nhà này đi có được không?
-Những ý kiến của thầy má đều đã nghĩ tới nhưng không được đâu... Hay là thầy lại thử viết thư sang Mỹ xem. Nói là lần cuối cùng và chỉ mượn đỡ thôi.

Ở đây chúng ta cần ghi chú một điều, rất nhiều ông cố bà cố đã thúc bách con phải trở thành linh mục bằng được vì muốn hãnh diện với xóm làng, họ mạc, giáo xứ bất biết con mình có sẵn sàng tận hiến không. Như bà cố Chiến, từ lâu bà chỉ mong mỏi có một điều là thầy Sáu Hóa trở thành linh mục, để bà được mọi người gọi là “bà cố” một danh xưng cao quí khó có bút mực nào tả cho hết. “Đỗ cụ” từ rất lâu trong những giáo xứ ở Bùi Chu, Phát Diệm là một giấc mơ, một thiên ân, có thể hãnh diện hơn làm quan triều đình rất nhiều vì quan còn lo phải về vườn chứ linh mục thì làm “cha” cho đến khi chết, tác giả Duyên Lãng cũng viết như thế. Thân sinh vị Linh mục được lên chức “ông cố, bà cố” ngay và được kính nể đặc biệt, không những với giáo dân khắp nơi mà cả các linh mục chánh, phó xứ và cả Giám mục nữa. Người ta trọng chức linh mục vậy có trọng những người đã sinh ra linh mục cũng là chuyện đúng thôi.

Bút Xuân nhớ có nhiều giáo xứ ở Bắc Việt khi xưa có lệ, đàn ông trong giáo xứ nếu không mua nhiêu, mua trùm tức là đóng một số tiền đã được ấn định cho hàng xứ, sau đó có bữa cơm “dưa ghém, chén rượu nhạt” với dăm chục chai rượu và con lợn to đãi hàng xứ thì dù lớn tuổi bao nhiêu đi nữa khi có cuộc rước của giáo xứ cũng phải cầm cờ, khiêng trống. Khi gọi tên, người hàng xứ chỉ nói:”Anh A, anh B hay ông C, ông D” nếu đã có vẻ lớn tuổi chứ không có tước vị đi trước. Nhưng khi đã ăn khao, những người đó được gọi theo tước vị đã mua, thí dụ: “anh nhiêu A, ông trùm B, ông trưởng C” và khi đã có chút tước vị đi trước tên như đã nói, những người này trở thành chức sắc trong giáo xứ, không còn phải đi cầm cờ khiêng trống mỗi khi có cuộc rước nữa. Bạn có thể nói, đến bữa đó bạn bỏ đi chơi xa thế là hết cầm cờ khiêng trống chứ gì? Không đâu bạn ơi, các ông trùm sẽ cho người đến báo trước cả tuần, nếu bạn vắng mặt, bạn phải nộp phạt mấy đấu gạo hay mấy xu. Đau ruột lắm. Bạn ì ra không chịu đóng ư? Linh mục chánh xứ (xứ tôi chẳng hạn) sẽ cho rao tên bạn trong lễ Chủ nhật. Mặt mũi nào mà nhìn ai! Thôi thì cái việc rất dễ, cầm cờ đuôi nheo đi trước hoặc khiêng trống theo sau cho xong. Cầm cờ thì những hôm nào gió to, người yếu, gió muốn cuốn cả cờ cả người lên nóc nhà thờ. Đánh vật với cờ cũng mệt. Còn khiêng trống có lẽ zui hơn. Hai người khiêng một cái trống cái, trống to nhất, to bằng hai cái thùng phuy. Tay đánh trống có thể là một ông trương, ở xứ tôi là trương Bãi, thường mặt đỏ gay như con gà chọi, có lẽ trước khi đi đánh trống, để thêm hăng hái, ông trương đã tợp vài ngụm rượu trắng cho lên tinh thần. Cứ đi một quãng ngắn, theo đúng bài bản, ông trương Bãi lại múa dùi trống như người hươi côn rồi lừa lừa đánh “tùng” một cái vào mặt trống. Coi cũng zui. Sau ông trương là phường trắc: sol sol lá sol fà sol đồ...và các cháu bé vừa gõ hai thanh tre vào nhau vừa nhảy như nhảy cò cò. Coi cũng đã. Nếu là tháng hoa, các cháu gái đồng phục trắng, tay cầm giỏ hoa, theo lệnh, cứ thỉnh thỏang lại vãi hoa, sau các cháu gái này thường là kiệu Đức Mẹ. Kiệu Đức Mẹ hay kiệu Chúa Giêsu ban Phép Thánh Thể (Santi) thì bạch đinh không được khiêng mà đã có các cô trung binh và các trùm trưởng chức sắc.

Như chuyện khao vọng, Bút Xuân, ngày xưa lúc còn thiếu niên chưa đến 18 tuổi để “được” cầm cờ khiêng trống rồi sau đó ra Hànội sống, nên chẳng biết cái thú khiêng trống ra sao. Chứ mấy người anh họ, vì nhà nghèo chẳng có tiền mua nhiêu, mua trùm, mua trưởng, đám rước nào của giáo xứ cũng phải đi cầm cờ khiêng trống đỏ cả vai, làm bạch đinh cho đến già, cứ phải cầm cờ khiêng trống với lũ nhãi ranh mới lớn, thật dễ giận, kì cho bỏ tiền ra mua ngôi thứ và ăn khao mới thôi. Cho nên có tiền mua cái danh hờ trong giáo xứ xưa kia cũng là điều nên làm khi có thể.

Riêng với các ông cố (bố cha) thì khác hẳn. Dù chưa mua tước vị gì, chưa khao vọng, chưa mất một miếng trầu bát nước cho hàng xứ, vẫn là dân bạch đinh vô danh tiểu tốt thôi nhưng từ khi ông con lên chức phó tế rồi đỗ cụ một cái thì đố thằng nào dám léo hánh đến nhà ông “tân cố” bảo ông đi cầm cờ, khiêng trống như trước nữa mà khốn khổ khốn nạn. Khi ông bà ra đường có khối kẻ cúi đầu rất sâu:”Con xin phép lậy ông cố ạ.” “Xin phép lậy bà cố ạ”, danh xưng “ông cố bà cố” được tự động gọi không ai bảo ai. Còn khi có cỗ bàn hàng xứ, ông cố được mời ngồi chiếu nhất với linh mục chánh xứ, trùm chánh, trùm phó, vị chi 4 người một mâm. Khi không có linh mục. ông cố lại được cái hân hạnh mời xướng kinh “Lạy Cha” trước khi cầm đũa, một tôn trọng đặc biệt của người Công giáo ta.

Còn bà cố thì khỏi nói. Bà cũng ngồi với các bà trùm chánh, trùm phó, cũng ở chiếu nhất phía nữ vì lúc đó có lệ đặt phản ngồi riêng cho nam giới cũng như nữ giới, theo đúng sách vở “nam nữ thụ thụ bất thân” của cụ Khổng Khưu. Các chị Nhiêu, chị Quản, chị Giáp chớ có mà xớ rớ lên các mâm đó kẻo bị mời xuống bẽ mặt.

Vì vậy, chẳng phải linh mục chánh xứ, hàng xứ mà đến vị Giám mục sở tại cũng phải nể vì ông cố bà cố: Khi có báo cáo có khách chờ, vị Giám mục nói:
“Chắc lại bà cố Chiến.”

Và danh xưng bà cố phát ra từ miệng Giám mục nó mới cao quí, đáng kính làm sao:
“Chào bà cố. Công việc đến đâu rồi?”

“Thân lạy Đức cha, thầy Sáu chưa thành linh mục mà Đức Cha đã phong cho con rồi.”

Bà cố Chiến có vẻ e thẹn nói câu đó với một niềm vừa tự hào vưà sung sướng vô biên.
Ấy cái danh xưng trong xã hội ta quan trọng như thế đó.

Chúng ta lại ghi nhận thêm một sự việc nữa. Các ông cố bà cố luôn luôn thích gọi người con đang chờ ngày thụ phong linh mục là “thầy Sáu, là cụ Bốn, cụ Sáu” như ở quê tôi khi xưa và khi đã “đỗ cụ” rồi là cha. Có nhiều vị còn xưng con với con mình nữa để cho người ngòai thấy chức thầy cả cao trọng là nhường nào. Như bà cố Chiến nói với linh mục Hóa buổi tối ăn mừng:
- Cha mệt lắm hả? Con dọn giường cho cha đi nghỉ sớm nhá!

Chỗ hay nhất của câu chuyện là những lời đối thọai giữa chị Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Cộng sản (Saigòn) và bà cố Chiến khi bà cố đến nộp tiền. Bà cố bảo chị ta kiểm lại, chị ta vênh mặt, nói:
“Chị dám thiếu sao? Tôi dư biết là đủ rồi” cho thấy quyền uy của những kẻ cai trị dù là cai trị bằng bá đạo.

CỨU CÁNH BIỆN MINH PHƯƠNG TIỆN
Mấy người bạn của Bút Xuân sau khi đọc xong chuyện “Bà Cố”, trong lúc trà dư tửu hậu có nói với Bút Xuân rằng:

“Thầy Sáu Hóa đã vào Chủng viện, đã tu tập nhiều năm sao thầy lại có thể nói dối cụ Nghị rằng thầy mồ côi mồ cút, bố mẹ chết hết, không ai thân thuộc để đánh động lòng thương của cụ Nghị đang ở Mỹ, gửi tiền về cho thầy ăn học. Có khi thầy còn nói phịa ra nay tổ chức ca đòan cho giáo xứ này, mai lập hội CG tiền hành cho giáo xứ kia rất tốn kém khiến cụ Nghị cảm động và càng gửi thêm tiền giúp đỡ thầy Sáu Hóa trong việc tông đồ cao quí. Ngay bước đầu tu tập, thầy Sáu Hóa đã nói dối bà mẹ nuôi để đạt mục tiêu, như vậy khi đã thành LM rồi, thày còn tiếp tục nói dối nhiều nữa vì những mục tiêu bất chính của thày thì sao?”

Bút Xuân nghe qua, ngẫm nghĩ rồi trả lời mấy ông bạn thân mến như thế này:
“Nói dối là xấu nhưng cũng có trường hợp nói dối OK. Đành rằng thầy Sáu Hóa có nói dối cụ Nghị, ngay cả nói dối lần cuối cùng để được gửi 12,000 đôla đem hối lộ thành ủy Cộng sản nhưng xét cho cùng thì thầy chỉ theo cái châm ngôn:”Cứu cánh biện minh phương tiện” mà thôi.

Cứ theo cái khuôn vàng thước ngọc này thì “tất tần tật” mọi phương tiện đều tốt miễn là đạt được mục tiêu sau cùng, miễn là “chất lượng” sản xuất cao.

Xin nêu vài sử liệu để quí bạn dễ hiểu.
Nhiều Sử gia có viết về “bác” Hồ vô vàn kính yêu, chí công vô tư của nước Việt Nam chúng ta sở dĩ phải báo cho Mật thám Pháp bắt cụ Phan bội Châu để lấy 100,000 tiền thưởng là vì bác muốn dùng tiền ấy để tổ chức, phát triển đảng CS Đông dương. Nhất cử lưỡng tiện, một mặt trừ được một kẻ thù lợi hại, quốc dân đang tín nhiệm, mặt khác có tiền nhiều thực hành phương án. Đó chính là dùng cứu cánh để biện minh cho phương tiện dù phương tiện “chất lượng” quá bèo.

“Bác” cũng phải nói dối người Việt chúng ta và quốc tế hồi năm 1945 rằng đảng Việt Minh là đảng của người Quốc gia thuần túy chứ không có Cộng sản Cộng xiếc gì để mọi người dân Việt yên tâm đứng sau “bác” - kể cả cố Giám mục Lê hữu Từ - đánh Pháp xiểng liểng và để Hoa Kỳ-Anh quốc và các nước trong thế giới tự do ủng hộ “bác” và Chính phủ Liên Hiệp do bác thành lập. “Bác” và cán bộ của bác luôn mồm nói “độc lập, tự do, hạnh phúc, đường ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày đợi ngày. Ngày mai bao ấm no diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do” nhưng đã 64 năm từ ngày toàn dân hát bài ấy ra rả cả ngày mà chẳng thấy độc lập đâu, trái lại “bác” dâng biển dâng đất đứt cho quan thầy để xin chức Thái Thú. Tự do thì chỉ có tự do vào tù và đeo còng số 8, còn hạnh phúc thì vợ chồng con cái lê la ở ngoài đường sống trên những bãi rác, trẻ con khỏi đi học nhưng bắt ruồi nhặng đem bán cho những kẻ đi bẫy chim làm kế độ nhật. Đường ta còn đấy nhưng đi đâu dù chỉ cách vài km cũng phải báo cáo tạm trú tạm vắng, nhà ta không có thì ta đi xây mướn cho các huyện, tỉnh uỷ, thành uỷ, hiện nay là những tư bản đỏ giầu nứt đố đổ vách, ruộng của ta, ta không được phép cày nữa mà đảng và các cán bộ, đảng viên ưu ái chiếm hết cả, ta có đi khiếu kiện như cả triệu dân oan vài, ba chục năm cũng không đi tới đâu chưa kể công an dùng vòi rồng xịt nước, roi điện, hơi cay, vứt lên xe đánh đập tàn nhẫn và bỏ tù mút chỉ. Coi LM Nguyễn văn Lý, LS Lê thị Công Nhân, LS Nguyễn văn Đài và hàng trăm chiến sĩ Dân chủ khác là thấy.

Đấy, nghe phỉnh nịnh lắm vào giờ hối không kịp cũng chỉ bởi người nước ta ưa phỉnh nịnh, hễ có đứa khen là ôm bom ba càng nhảy vào xe tăng liền. Tóm lại, những điều “bác” Hồ chí Mén (chí là loại rận sống trên đầu, mén là con chí nhỏ) và đảng của bác làm đều là theo sát câu châm ngôn trí tuệ tiên tiến “cứu cánh biện minh phương tiện” nói trên. Sư ông Thích Nhất Cộng và vợ là Không Chân (nhưng biết sanh con trai nối nghiệp thiền) ở làng May (mấy lúc sau này quá xui vì mắc lỡm Vẹm) cũng cùng bài bản.

Một việc khác, Hoàng đế Bảo Đại, vị minh quân cuối cùng nhà Nguyễn của nước Việt Nam ta, khi Ngài ngự muốn bứng ông Ngô đình Diệm đi trong chức Thủ tướng Chính phủ Miền Nam do Ngài mời ông Diệm về làm, nên đã dối trá triệu hồi ông Diệm sang Pháp để cầm chân ông ở đó và cử Bảy Viễn lên làm Thủ tướng thay thế ông Diệm vì Bảy Viễn mở sòng bạc Kim Chung Đại thế giới tiền vô như nước, mỗi tháng có thể cung cấp cho Hòang đế cả trăm ngàn tiền Đông dương để ăn chơi du hí, nuôi đầm non bên Paris, còn ông Diệm thì nghèo xác nghèo xơ, trên răng dưới dép, tiền đâu mà cung phụng Ngài ngự? Cho về vườn là rất đúng sách vở Quốc văn giáo khoa thư lớp Đồng Ấu: ”Không tiền đố mầy làm nên.” mà Bút Xuân đã học từ hồi 6-7 tuổi. Ấy xin lỗi, không thầy chứ! May là ông Diệm đi guốc vào cái tim đen Quốc trưởng Bảo Đại không thì bị giam lỏng húp cháo rùa ở Paris.

Đây là một đọan nguyên văn trong bài “Truất phế Bảo Đại và khai sinh Đệ nhất cộng hòa của ông Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng thời CP Diệm:

“Hiệp ước đình chiến Genève ký kết ngày 21-7-1954 chia đôi VN nơi vĩ tuyến 17.Bảo Đại gây khó khăn cho ông Diệm bằng cách từ Cannes gửi ngày 28-4 và 30-4-55 hai công điện liên tiếp triệu hồi TT Diệm qua Pháp để “tham khảo ý kiến” vì ông Diệm khai trừ tướng Nguyễn văn Hinh, không chấp nhận tướng Nguyễn văn Vĩ như tân Tổng tư lệnh Quân đội, cương quyết kết thúc kế họach dẹp giáo phái, quét sạch Bình Xuyên và giải tán tổ chức võ trang UMDC của Leroy. Ý đồ của Bảo Đại là thay thế Thủ Tướng Diệm, có thể bằng Lê văn Viễn tự Bảy Viễn, xếp sòng Bình Xuyên, lúc đó đang nắm giữ guồng máy Cảnh sát, công an và kiểm sóat sòng bài Đại thế giới để cung cấp tiền nong cho Quốc trưởng.” (Hết trích)

Theo ý Bút Xuân, Hoàng đế Bảo Đại làm rất đúng theo câu châm ngôn trên. Ngài ngự sáng suốt vô cùng! Lưu vong qua Pháp chỉ có trên răng dưới giầy tây, Ngài không thể mang theo cả lầu vàng điện ngọc của Hòang gia từ thời ông cố tổ Nguyễn Kim - Nguyễn Hòang, rồi Nguyễn Ánh, Ngài cần tiền là đúng “Không tiền đố mày làm nên” xin nhắc lại một lần nữa. Vả lại Ngài ngự còn một đám đầm non mà cô đầm Monique Baudot, xinh như mộng là một - vây quanh, tối xâm banh nhẩy đầm, sáng Croissant, sữa Guigot vàng, thì tiền núi cũng hết. Chỉ có Bảy Viễn, xếp sòng Kim Chung - Đại thế giới hốt từ tiền cắc do lấy xâu mọi thành phần ham mê đỏ đen, tứ đổ tường lúc đó ở miền Nam, kể cả những anh xích lô đạp - để phân biệt với xích lô máy khá giả hơn một tí - và những bà bán rau cải ở chợ, thì mới đủ cung cấp cho Ngài ngự mà thôi.

Vậy thì, cứu cánh biện minh phương tiện, để ông thày tu Diệm ngồi kì đà cản mũi làm chi. Bứng ông đi, Vĩ có job, Bảy Viễn có good job, Hinh có job, Ngài ngự thỏa mãn đến tận cùng chân răng, kẽ tóc. Hăm lăm triệu dân Việt lúc đó, chỉ có mình Ngài là Hòang đế anh minh, dại gì mà không hưởng cho đã mà Ngài ngự vốn xưa nay đã rất nổi tiếng về cái sự đờn bà con gái vì mỗi đêm không có cái “sinh vật” khác giống này là hổng ngủ nổi. Thực là nhất cử lưỡng tiện, vừa cho con dân của Ngài biết Ngài rất thương dân, xăng xái đến cả mọi họat động của Chính phủ do Ngài lập ra, để dân quên đi cái tháng Ba khốn khổ năm Đói mới vừa qua chết hai triệu người mà Ngài ngự chẳng hề lên tiếng lấy một câu yêu cầu quân phiệt Nhật và thực dân Pháp mở hàng trăm kho gạo đầy ắp do chúng tích trữ thu mua lâu ngày, đặng phát cho dân chúng cầm hơi đỡ chết đói chờ đến mùa lúa mới. Sau vụ đói, Bút Xuân có hân hạnh nhìn tận mắt các kho gạo này cao to như những cái núi ở bến Sáu kho Hảiphòng và ở nhiều nơi khác.. Bứng ông Diệm đi, để Bảy Viễn thế, vừa củng cố đám thuộc hạ, chân tay như Hinh, như Vĩ, như Xuân và nhiều tên khố xanh khố đỏ khác như Đỗ Mậu, Trần thiện Khiêm, André Đôn, Đính, Lễ, Linh quang Viên v.v...do Pháp đào tạo rất ăn ý với Ngài ngự, vừa hưởng lợi lớn mỗi tháng tiền vô khẳm.

Một người bạn Bút Xuân, lão Cả Đẫn, khi nghe tới đây liền giơ tay có ý kiến. Cả Đẫn phát ngôn rằng thì là...(ông ta có tật nói lắp, già bảy mấy vẫn không sửa được) là là ...nước Việt Nam 4 ngàn, hai trăm, 31 năm văn...văn hiến, văn học ta thật có phước phước lớn lắm mới sản sanh được mấy nhân nhân nhân...vật kì tài tài. Địa địa linh linh...linh sinh nhân kiệt. Đó là bác “bác” Hồ vô vàn vàn vàn kính yêu của các cháu qùang khăn đỏ như cháu Huỳnh thị Thanh Xuân ở Đà nẵng (mới viết thư tố cáo bác: “Tôi gặp bác Hồ năm 1964 bị bác phá trinh lúc tôi mới 15 tuổi”), Vẹm Duẩn, Mười, Anh, Triết, Mạnh, Dũng, Giáp v.v...Hòang Hòang đế Bảo Bảo Đại, Đại tướng tướng Dương văn Minh, tướng Đỗ Đỗ Đỗ...Mậu, sư ông hổ hổ hổ mang mang Trí Quang, tướng Nguyễn chánh Thi, tá Vương văn Đông v.v......”

Bút Xuân phải ngắt lão:

“Thôi, còn rất nhiều như sau này, kể đến tối cũng không hết những thứ trời ơi đất hỡi đó ở nước ta, tất cả là nhờ địa linh nhân kiệt đấy, sung sướng nhá. Nhưng thôi, hãy tạm ngưng đã bác Cả. Em nghe bác nói em mệt tim lắm...”

Cả phòng cười ran. Thực vậy, nói thì không mệt mà nghe Cả Đẫn nói thì mệt đứt hơi vì cứ như nghe dân tị nạn vừa từ đảo sang nói tiếng Anh. Cả Đẫn vẫn chưa chịu, giơ tay phản đối cái một:
“Tôi tôi tôi ...mới nói nói nói có một câu.”
“Vâng, bác Cả. Bác mới nói có một câu mà bọn tôi muốn mệt, bác nói nữa thì chắc có thằng phải gọi I-mớ-rân-xi đấy.”

Cả phòng lại cười. Cả Đẫn cũng nhe răng ra cười xòa. Cả được cái nết không biết giận.

Cứu cánh biện minh phương tiện khi tên Trần huy Liệu cán bộ cao cấp Vẹm chỉ đứng sau Hồ dâm tặc, (tên này cướp vợ của Phạm Giao, con học giả Phạm Quỳnh, y giết Phạm Giao cùng với cụ Quỳnh). Lúc y làm Bộ trưởng Tuyên truyền của Vẹm, y tạo ra một đứa trẻ tưởng tượng tên Lê văn Tám, mới hơn 10 tuổi, biết quấn giẻ vào người, tẩm xăng đốt rồi chạy vào kho xăng của Pháp làm nổ kho xăng cháy mấy ngày đêm. Y không hiểu là khi lửa bắt lên thì nóng rát quá, bố thằng bé cũng không chạy được nữa nhưng y cứ nói láo vì cứu cánh biện minh phương tiện. Ấy vậy mà không thiếu cháu ngoan “bác” Hồ quàng khăn đỏ muốn thực hành như thế để được nổi tiếng. Đã bảo người Việt, ngay từ đứa con nít cũng muốn “nổ” mà! (dunglac.org)

Cứu cánh cũng biện minh phương tiện khi Đại tá Dương văn Minh, Tư lệnh chiến dịch Rừng Sát - do TT Ngô đình Diệm chỉ định - đã thuổng được một túi (túi hình trụ, khá lớn, binh sĩ thường dùng để đựng, mùng, mền, poncho, quân trang cá nhân). Túi đầy tiền giấy và kim cương, ngọc thạch, vàng y...đáng giá nhiều triệu đồng từ tên Paul, con trai Bảy Viễn. Thay vì đem trình TT Diệm - rồi cũng được thưởng - nhưng cũng vì cứu cánh chứng minh phương tiện, Đại tá Dương văn Minh ém nhẹm luôn nguyên túi cho chắc ăn. Việc đổ bể đến tai TT Diệm, ông bèn cho Đại tá ngồi chơi xơi nước.(Xin đọc: Những ngày bên cạnh TT Ngô đình Diệm, tác giả Đ/T Nguyễn hữu Duệ) Chính vì thế mà Dương văn Minh để tâm thù, ra lệnh cho tên Đại Úy Nhung và tên Đại tá Mai hữu Xuân hạ sát tức tốc hai anh em ông Diệm-Nhu ngày 2-11-1963. Y làm Tổng thống hai ngày rồi quì dâng miền Nam cho Cộng sản để Cộng Sản tha mạng cho y. Khi y chết ở Hoa kỳ, mấy tên sĩ quan khốn kiếp, vô liêm sỉ lấy cờ vàng phủ quan tài y, lá cờ mà y đã phản bội ít nhất hai lần và chính y đã xử tử miền Nam 2 lần.

Cứu cánh cũng chứng minh phương tiện. Nguyễn văn Thiệu vừa tuyên bố trao quyền lại cho cụ giáo già Trần văn Hương, suốt đời chỉ có thể làm hành chánh và dạy học, để ông Thiệu trở về với Quân đội đặng có thêm một tay súng như ông ta tuyên bố để chống với Cộng sản thì vừa tuyên bố buổi sáng, chiều tối Thiệu cùng gia đình lên máy bay Mỹ sang Đài loan có Đại sứ Kiểu là anh ruột đón ở đó.

Cũng theo châm ngôn này, Nguyễn cao Kỷ hôm trước tuyên bố ở trước nhà thờ Tân Sa Châu tuyển mộ 500,000 tay súng quyết giữ vững Sài gòn thì ngày hôm sau người ta thấy y và vợ con y có mặt ở Đệ thất Hạm đội Hoa kỳ ở ngòai khơi. Cũng cứu cánh, y xin về làm bồi cho bọn Vẹm tội đồ dân tộc hòng kiếm chân tuỳ phái nhưng bọn Triết Dũng Mạnh không thí cho thằng khốn nạn một cục xương!

Nếu kể cho hết thì không biết là bao nhiêu trường hợp cứu cánh biện minh phương tiện ở nước ta, như Nguyễn đan Quế, Hoàng minh Chính, Dương thu Hương, Đỗ nam Hải... dân chủ giả hiệu.

Giặc cái xoen xoét cái lỗ mồm Dương thu Hương (ngày nào còn nói về ỉa phẹt lên đầu từ thằng Hồ, thằng Duẩn thằng Giáp, thằng Thọ...trở xuống) nay lại bày đặt viết “đỉnh cao cứt chồn” thối hoăng cả Paris, nhằm đánh bóng tên dâm tặc Hồ chí Mén mặt sắt đen sì chuyên khẩu dâm, khiến bà con hải ngoại muốn ói mửa, buồn nôn. Bãi đờm y thị nhổ ra ngày nọ, nay y thị cúi xuống húp vào. Thực là vô liêm sỉ. Nhưng cho dù y thị viết ca thằng giặc Hồ, dịch ra Pháp văn, nhưng cả quốc tế và trong nước không ai là không biết thằng giặc già dâm đãng hại biết bao đời con gái những thiếu nữ mới hơn chục tuổi đầu, kể cả Nông thị Xuân (đẻ ra Nguyễn tất Trung) và Nông thị Ngát (đẻ ra Nông đứt Mạch) chỉ đáng cháu nội, cháu ngoại y như cô Huỳnh thị Thanh Xuân (nay đã 60). Y giết vợ, bỏ con, một con yêu tinh, quỷ sống, y chính là con của Nguyễn sinh Sắc và Nguyễn thị Kim Loan ở thôn Kim Liên, Hà tĩnh. Y giam lỏng anh y là Nguyễn sinh Khiêm cho đến chết vì sợ Khiêm tiết lộ nhiều điều bất lợi cho y. Chị y là Nguyễn thị Thanh đến Bắc bộ phủ mấy lần chờ chực nhưng y cho lính gác nói chủ tịch không có nhà và đuổi đi. Bà này uất hận quá mà chết. Lăng mộ cha mẹ y, bọn gian thần xây cất nhưng đã nhiều lần dân chúng trét cứt lên, cũng y như lăng mộ của Chinh, Đồng, Duẩn, Thắng v.v...Nhưng tội lớn nhất của giặc Hồ là dâng biển đất nước ta cho Tàu phù. Tàu hiện đã xuống ở đầy các thành phố lớn của ta. Thằng giặc già tính sao đây?

Nhiều anh to mồm như Nguyễn chí Thiện cũng chửi Vẹm, ra cái điều ta cũng chống Cộng đây nhưng đố dám động đến thằng Hồ dâm tặc chẳng biết vì sao? Thực ra mấy anh này còn khá hơn tên “rắn ráo” sư Trần chung Ngọc, y kề miệng lỗ nhưng mù đặc chẳng biết đúng sai, chẳng biết công tội, lúc nào cũng khoe học vị đầy mình, liếm trôn Vẹm miệng thối hoăng phẩn Hồ nhưng cứ ở lì Hoa Kỳ đớp kỹ bánh, thịt tư bản, chẳng biết nhục. Khoái Vẹm thế sao y không về Việt Nam mà sống với chúng? Y luôn luôn chửi Công giáo, phạm thượng đối với Thượng Đế, chửi ông Diệm vô căn cứ, y là một thằng vô lại, bất cố liêm sỉ!

Chuyện những tên này như bọn hủi Vaala, Việt Tân, Madison Nguyễn, bọn hủi Đỗ ngọc Yến...có nói đến tết Iran cũng chưa hết chuyện. Vả lại càng nói thì bạn đọc càng tởm, ăn cơm hết ngon! Xin trở lại với thày Sáu Hóa và bà cố Nghị kẻo hết đêm!

Thực ra, cụ Nghị đang ở Hoa Kỳ cũng chẳng mất gì. Tiền già cụ lãnh ở Mỹ không phải là tiền mồ hôi nước mắt do cụ làm ra hoặc con cháu cụ làm ra, hoặc cha mẹ cụ để lại. Cụ sang đây đòan tụ với con là đã quá sung sướng. Sau mấy năm, đủ ngày đủ tháng đủ tuổi, Chính phủ Mỹ cho cụ hưởng tiền già, có Medical khám bệnh, mua thuốc miễn phí, có các chương trình săn sóc người cao niên, có dịch vụ xe đưa đón, có chương trình phát bơ, sữa, cheese, đường ăn mệt nghỉ. Nếu cụ ở một mình thì cụ phải chi phí hơn phân nửa tiền già; đàng này cụ ở với con trai và con gái, cụ không mất tiền ăn, tiền ở, tiền già cụ để dành hầu hết vì vậy mà cụ có nhiều tiền để gửi cho thầy Sáu Hóa. (tinvui.org Văn học)

Số tiền 12,000 đôla để thầy Sáu Hóa đút lót đặng bước lên bàn thánh ”Con là linh mục đời đời” và những món tiền khác cụ gửi mỗi tháng trong nhiều năm cho thầy Sáu Hóa tu tập, bảo rằng không phải của cụ Nghị thì của ai? Đó là tiền của Chính phủ Mỹ thu thuế từ nhân dân Mỹ. Nhân dân Mỹ đóng thuế khá nặng cho Chính phủ để chính phủ điều hành việc nước và phát triển những chương trình xã hội mà chương trình trợ cấp cho người cao niên là một.

Thầy Sáu Hóa, rốt cuộc, được thành ủy Cộng sản cho phép chịu chức Linh mục vì đã nộp đủ tiền, công lao cũng là từ nhân dân Mỹ mà ra. Nếu cụ Nghị không được cấp phát số tiền này hàng tháng thì dù cụ có muốn giúp thầy Sáu Hóa đến đâu cũng chịu thua. Cũng như hiện tại, Việt kiều hải ngọai năm nay chuyển về quê hương trên 5 tỉ đôla do chánh sách bật đèn xanh của Hoa kỳ. Nếu Hoa kỳ không cho, làm sao CS Việt có số tiền lớn lao bằng ngọai tệ như thế để mướn thêm công an rình rập theo dõi dân chúng và nhất là để trù dập các nhà tranh đấu bất khuất cho Dân chủ Tự do như LM Nguyễn văn Lý, LS Công Nhân v.v...(vietnamexodus.org Văn học)

Trong lễ mở tay, người sung sướng nhất chắc phải là bà cố Chiến, rồi đến Linh mục Hóa khi ngài nằm sấp mình giang tay, giang chân giữa cung thánh ăn năn với Đấng Tòan Năng thanh tẩy ngài cho xứng đáng. Nhưng có lẽ trong lúc đó biết đâu bà cố Chiến lại không nghĩ đến câu nói của mụ Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc:

“Ông Hóa lên làm ông cha rồi đi Mỹ một chuyến thu lời gấp trăm gấp ngàn lần ngay thôi. Chị không thấy đấy ông đức cha và các ông cha nào đi Mỹ về mà không ôm cả đống đôla.”

Bà cố Chiến quả đã đầu tư một cách rất khôn ngoan như bà thường bảo thầy Sáu Hóa:” Con là cái gậy chống của mẹ lúc tuổi già.”

Anh em bạn hữu Bút Xuân tụi tôi chỉ mong cho linh mục Hóa và 57 tân linh mục thụ phong cuối tháng 11-05 và các Linh mục cố cựu khác sẽ không bao giờ như ông “cha TKP” trong truyện ngắn “Bà cố” bê bối đủ thứ mà “cũng không thấy bề trên nói gì.” Và hi vọng sẽ chẳng gặp một tân linh mục nào trong số 57 linh mục mới chịu chức ngày 29-11-05, kể cà linh mục Hóa, ở bất kì một giáo xứ nào trên đất Mỹ, sang xin tiền, như lời Mụ Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc của Vẹm... Kiếm đôla ở đây cũng khó lắm chứ không phải như người Việt ở VN, nhất là “đồng chí gái” Chủ tịch Mặt trận, nghĩ chắc bên Mỹ, ra đường cũng nhặt được hàng đống đôla.(hon-viet.co.uk trang VHNT)

Tóm tắt, thầy Sáu Hóa và bà cố Chiến đúng là đệ tử ruột của câu châm ngôn cao quí, nhất là khi bà tuyên bố một câu xanh rờn, đầy tình nghĩa:
“Người đàn bà đó - cụ Nghị - từ nay không còn cần thiết nữa.” Cứu cánh đã đạt rồi thì phương tiện “chất lượng” mấy cũng vứt y như cô Nông thị Xuân và những đứa bạn của cô Huỳnh thị Thanh Xuân năm xưa vậy.

Các Hội Bảo trợ ơn Thiên triệu tại Hoa kỳ có đọc được câu chuyện thật này của tác giả Duyên Lãng không?

No comments:

Blog Archive