Friday, February 6, 2009

ĐEM TÂM TÌNH VIẾT LỊCH SỬ - TRÔNG NGƯỜI MÀ NGHĨ ĐẾN TA

BẰNG PHONG ĐẶNG VĂN ÂU

Lời người viết: Cuộc chiến tranh Quốc Cộng Bắc Nam đã gây nên bao cảnh phân ly chia lìa. Hầu như gia đình nào cũng có người ở phía bên này, bên kia. Cuộc huynh đệ máu lửa tương tàn đã chấm dứt hơn ba thập niên mà vẫn chưa nguôi niềm u uẩn. Tuy thư này được viết cho một người anh thúc bá trong gia tộc – Con Hùm xám Đường 4 Đặng văn Việt – nhưng có liên quan đến bối cảnh Nước Nhà, nên người viết xin trân trọng gửi độc giả trong và ngoài nước để cùng chia sẻ tâm tư.
Houston, Texas, U.S.A., ngày 20 tháng 1 năm 2009.

Anh Đặng văn Việt kính mến,
Em khởi sự viết thư này cho anh vào một ngày trọng đại đánh dấu khúc quanh lịch sử Hoa Kỳ – Ngày tuyên thệ nhậm chức của một vị Tổng thống DA ĐEN đầu tiên: Ông Barack Hussein Obama. Từ vị Tổng thống đầu tiên George Washington đến George W. Bush, các Tổng thống Hoa Kỳ đều có gốc Ái Nhĩ Lan, chứ không có ông nào gốc Đức, Pháp, Anh lọt vào. Chưa biết lúc nào thư này sẽ viết xong, vì em cứ bận các thứ việc hiếu hỉ linh tinh trong mấy ngày giáp Tết và em cũng cần thời gian để trang trải tâm tư với anh. Đây là những lời rất tha thiết nói lên niềm thao thức của em, mong anh cảm thông.
Như kẻ tình cờ “lạc đường vào lịch sử” bỗng trở thành chứng nhân ở góc cạnh nào đó trong một giai đoạn, em xin ghi lại vài điều suy nghĩ gửi anh, để biết đâu nó sẽ là tư liệu hữu ích cho những nhà viết sử mai hậu, bởi vì thời đại này người ta cố tình xuyên tác lịch sử do ý đồ chính trị quá nhiều. Tên tuổi anh và bạn bè anh – những con cái thuộc gia đình tiểu tư sản – đã đi vào quân sử kháng Pháp, đánh dấu một thời kỳ oanh liệt đấu tranh giành độc lập, nhưng bị gạt ra vòng ngoài vì cái chủ nghĩa lý lịch phân biệt giai cấp. Thư này em viết cho riêng anh và cho cả các đồng đội cũ cùng chung cảnh ngộ với anh.

Năm 1962 khi du học Hoa Kỳ, em – một thanh niên đến từ quốc gia chậm tiến – hết sức choáng ngợp trước những tòa nhà đồ sộ chọc trời, xa lộ thênh thang hun hút, xe cộ như mắc cửi biểu hiện sự giàu sang của nền văn minh cơ giới tột bực. Nhưng có một điều em cảm thấy không hài lòng. Đó là sự đối xử bất nhẫn của người da trắng đối với người da đen. Ví dụ như người da đen bị bắt buộc ngồi băng ghế sau cùng trên xe buýt, chỉ được phép vào phòng vệ sinh dành riêng cho người da màu … Sinh viên da vàng chúng em không bị đối xử kỳ thị, nhưng em chẳng cảm thấy hãnh diện chút nào. Em cho rằng sự kỳ thị chủng tộc, mầu da là sai lầm, là thiếu văn hóa.

Chưa đầy 50 năm, người Hoa Kỳ da trắng đã thay đổi thái độ và tư duy vì có nếp suy nghĩ cấp tiến hơn, lại thêm nhờ chính phủ của họ áp dụng triệt để luật cấm phân biệt đối xử, trong lãnh vực công đã đành, mà còn trong lãnh vực tư nữa. Bất cứ người da trắng nào có lời lẽ châm biếm người da đen là bị đuổi việc ngay. Đảng cộng sản thi hành chủ nghĩa lý lịch – tàn tệ không kém sự kỳ thị chủng tộc – làm tan nát hàng triệu cuộc đời – trong đó có dòng họ ta – hơn 50 năm rồi mà chưa biết khi nào sẽ chấm dứt. Chỉ vì anh là con của một vị Thượng thư triều Nguyễn nên bị mang chức Trung tá Trung Đoàn Trưởng mãn đời, mặc dù đạt được nhiều chiến công đánh Pháp lẫy lừng, trong khi ấy thành phần “bần cố nông” cấp dưới của anh thì lên Tướng.

Chứng kiến sự thay đổi của nước người, lòng em không khỏi chạnh nghĩ đến số phận hẩm hiu của dân nước mình. Hoa Kỳ bị phe thù nghịch lên án là Đế quốc xâm lược, nhưng quốc gia này không chiếm đất đai của ai làm thuộc địa. Nước Pháp tự hào về cuộc cách mạng Dân Quyền, về văn hóa, nhưng lại là quốc gia cực kỳ vô nhân đạo đối với nhân dân của nước bị trị. Nếu thực dân Pháp cai trị Ấn Độ, thì ông Mahatma Gandhi không bao giờ trở thành Thánh, mà sẽ bị bay đầu như nhà cách mạng Nguyễn Thái Học. Kể từ giờ phút này, người Mỹ da trắng sẽ dần dần trút bỏ mặc cảm xấu hổ vì tổ tiên họ đi “săn bắt” người da đen ở Phi Châu về làm nô lệ. Mặc dù không phải là quốc gia thập phần toàn hảo, nhưng Hoa Kỳ xứng đáng là tấm gương sáng cho những chế độ độc tài, độc đảng lạc hậu noi theo. Bởi vì khi nhận ra sai lầm là người Mỹ dũng cảm sửa đổi. Có thể nói Hoa Kỳ là nơi luôn luôn có cuộc “cách mạng nhung” xảy ra, thay đổi ôn hòa, chuyển giao quyền lực êm thắm. Chưa hề có nạn “cướp chính quyền” bằng bạo lực hoặc “đảo chánh cung đình” từ ngày lập quốc.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống vừa qua, em không bỏ phiếu cho ông Obama, không phải vì có cái nhìn xuống đối với người da đen như một số người khác, nhưng vì không đồng quan điểm chính trị tả khuynh thái quá và nhất là về chính sách quốc phòng và an ninh nội địa của ông ta. Tuy nhiên khi nghe ông Obama tuyên bố trong bài diễn văn Hoa Kỳ sẽ cương quyết đánh bại quân khủng bố thì em an tâm phần nào. Buổi lễ tuyên thệ nhậm chức năm nay được đánh giá “hoành tráng” hơn tất cả những lần trước kia. Báo chí thế giới – nhất là từ Âu châu – đều có bài nhận định tương tự nhau: “Hiện tượng Obama chỉ có thể xảy ra tại Hoa Kỳ”. Đúng thế! Ông Obama không những là người da đen, mà còn có ông bố đẻ với bố dượng theo đạo Hồi và mang tên đệm là Hussein, giao du khắng khít với kẻ khủng bố Bill Ayers, có vị mục sư linh hướng Jeremiah Wright từng đứng trên bục giảng ở nhà thờ cầu mong “Thượng Đế trừng phạt nước Mỹ” (God Damn America), nhưng cử tri da trắng Mỹ đa số có tín ngưỡng Thiên chúa giáo bất chấp, họ vẫn bầu cho Obama với tỉ số áp đảo.

Chưa biết nước Mỹ sẽ đi về đâu, nhưng ông Obama là sự lựa chọn của đa số nhân dân Mỹ nên có vị thế chính thống để lãnh đạo quốc gia. Những người cầm quyền của chế độ cộng sản hiện nay không do dân bầu, họ tự động dành cho họ cái quyền ban hành luật pháp và ngồi xổm lên là láo lếu. Nhiều chủng tộc khác mơ ước đến lập nghiệp tại Mỹ
chính vì Đất Nước này hứa mở ra cơ hội đồng đều cho mọi người được thực thi một cách nghiêm chỉnh. Cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Xô Viết – ông Mikhail Gorbachev – đã nói: “Một người Nga đến định cư ở Pháp lâu năm vẫn là người Nga, nhưng một người Nga đến ở Mỹ chẳng bao lâu thì trở thành người Mỹ”. Một xứ sở được kết hợp bởi những công dân không cùng chủng tộc, lịch sử, văn hóa mà chỉ trong vòng 200 năm đã trở thành siêu cường bậc nhất thế giới thì không phải là sự may mắn tình cờ. Em cho rằng đấy là nhờ lòng cương quyết theo đuổi lý tưởng Tự Do một cách lương thiện của các nhà lãnh đạo từ thời lập quốc. Em dùng từ “lương thiện” để nói họ không thiết lập nền dân chủ giả hiệu hoặc bánh vẽ.

Đại tướng George Washington sau khi đánh bại thực dân Anh giành độc lập, được các thuộc cấp đề nghị lên ngôi vua để có vị thế ngang hàng với vua nước Anh, nhưng ông từ chối và thiết lập nền Cộng Hòa. Sau khi làm Tổng thống hai nhiệm kỳ, người ta đề nghị ông làm Tổng thống mãn đời, ông lại từ chối. Ông nói: “Dù một người thông minh tài giỏi đến đâu mà làm Tổng thống hai nhiệm kỳ thì cũng đã hết sáng kiến. Tôi xin nhường chỗ cho người khác”. Lời nói của George Washington được các Tổng thống kế nhiệm tuân thủ như một luật lệ bất thành văn. Cho đến khi Tổng thống Franklin D. Roosevelt viện cớ đang có Thế chiến II, đã làm Tổng thống đến 4 nhiệm kỳ (từ năm 1933 đến năm 1945, nhiệm kỳ thứ 4 mới bắt đầu mấy tháng thì qua đời và Phó Tổng thống Truman thay thế). Từ đó, Quốc Hội phải viết tu chính án hạn chế nhiệm kỳ Tổng thống chỉ được phép tối đa là 8 năm.

Người lãnh đạo cộng sản “cướp chính quyền”, thiết lập chế độ Dân Chủ Cộng Hòa trên đất nước Việt Nam, viết ra bản Hiến Pháp rập khuôn theo Hoa Kỳ có đầy đủ các quyền dân chủ, nhưng không áp dụng một điều khoản nào. Ông Hồ Chí Minh là người đa mưu xảo quyệt. Ông lấy câu “Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc” làm khẩu hiệu nên dễ mê hoặc khát vọng của người dân bị trị. Ai có thể cưỡng lại cái lý tưởng công bằng xã hội, xóa bỏ giai cấp, làm theo khả năng hưởng theo nhu cầu, không còn có cảnh người bóc lột người? Dù là nạn nhân của hành động tai ngược dưới chế độ cộng sản, người ta cũng đã rộng lòng bao dung tha thứ vì cho rằng đó là lỗi lầm của cấp dưới! Anh đang là sinh viên Y khoa năm thứ 3 đã nghe theo tiếng gọi của Tổ Quốc cũng lên đường đánh Pháp, mặc dầu học vấn của anh là do Pháp đào tạo. Em có hỏi anh Đặng văn Sung vì sao giữa hai anh em lại có tình trạng kẻ đi hướng này, người đi huớng kia và được anh Sung trả lời: “Ngày đó ở Hà Nội có cuộc nói chuyện của ông Võ Nguyên Giáp và ông Trương Tử Anh ở hai nơi. Anh Việt đi nghe ông Võ Nguyên Giáp nói chuyện thì trở thành cộng sản; còn mình đi nghe ông Trương Tử Anh nói chuyện thì trở thành Đại Việt. Tuổi trẻ đâu có hiểu chủ nghĩa gì đâu, miễn là đánh Pháp”. (Bác sĩ Đặng văn Sung, nguyên Thượng Nghị sĩ Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa và Chủ nhiệm Nhật báo Chính Luận trước năm 1975, từng là cán bộ lãnh đạo của Đại Việt được chỉ định liên hệ với vua Bảo Đại. Bác sĩ Đặng văn Sung, Hùm Xám Đặng văn Việt và người viết là anh em thúc bá. Ông Nội chúng tôi là Hoàng Giáp Đặng văn Thụy, làm chức quan Tế Tửu của trường Quốc Tử Giám dưới triều Nguyễn ở Huế. Chức Tế Tửu giống như Viện trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh dưới chế độ VNCH – Ghi chú của người viết). Anh Sung hơn em hai giáp, sinh năm 1916 (tuổi Thìn), nhưng anh ấy khi nào nói chuyện với em út trong họ luôn luôn xưng “mình” rất dễ thương. Anh Sung được mọi người qúy mến không những vì nói năng lịch sự, mà còn cách cư xử hào hiệp rất đẹp. Ngày nay, những nhân viên từng làm việc cho Nhật báo Chính Luận – từ nhà văn, ký giả đến thợ sắp chữ – đều nhắc đến anh ấy bằng tấm lòng kính trọng và biết ơn.

Anh Đặng văn Việt qúy mến,
Em xin phép nói rõ để anh khỏi ngộ nhận. Có rất nhiều người như anh, vì khát khao Độc Lập, đã chấp nhận hy sinh gian khổ, chịu tù đày để đánh đuổi Thực dân Pháp rồi gia nhập đảng Cộng Sản. Tức là em xác nhận trong hàng ngũ đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có người yêu nước Việt Nam – chứ không phải yêu nước Trung Quốc như Triết, Dũng, Trọng. Nhưng bộ máy đảng Cộng sản không cho phép đảng viên được quyền yêu nước. Ai thấy điều sai trái trong đảng mà dám góp ý xây dựng là bị loại trừ ngay. Đó là trường hợp Trần Xuân Bách – người có khả năng được bầu làm Tổng Bí thư Đảng – chỉ mới manh nha tư tưởng theo gót chân Gorbachev thì liền bị khốn đốn. Nếu không có Nguyễn Cơ Thạch che chở, Trần Xuân Bách chắc chắn sẽ không tránh khỏi số phận nằm nhà đá. Đó là trường hợp Tướng Trần Độ bị tước thẻ đảng, lúc chết cũng bị Đảng không cho phép người nào phúng điếu với bốn chữ “Vô Cùng Thương Tiếc”. Vì vậy muốn leo lên địa vị lãnh đạo, người cán bộ phải “phấn đấu” như con tố cha (Trường Chinh), vợ tố chồng, nhắm mắt làm ngơ trước sự bất công, nịnh bợ lãnh tụ (Tố Hữu) để lấy niềm tin của Đảng hoặc tạo thành tích. Do đó, lấy đâu ra người lãnh tụ cộng sản lương thiện, tử tế, có lòng thương nước yêu dân? Chính người cộng sản thuần thành Phạm Quế Dương – bạn anh – đã công khai xác nhận Đảng Cộng Sản là một đảng cướp, sau khi xé thẻ đảng cơ mà!

Các cụ nhà ta nói không sai: “Gieo gì gặt nấy”. Gieo xuống đất hạt cam thì không thể mọc lên cây mít. Nhà cầm quyền Việt Nam càng ngày càng thối nát, xã hội càng ngày càng băng hoại là kết quả tất yếu do một đảng cầm quyền được xây dựng trên sự lừa đảo, dối trá, phi đạo đức, phản phúc, bất nhân. Nói tóm lại, đó là một đảng cướp, nhưng em cho rằng họ tồi tệ hơn đảng cướp đời thường, vì đảng cướp đời thường đi ăn cướp không nhân danh những biểu tượng thiêng liêng cao qúy như Tổ Quốc, Dân Tộc. Với cái nhân danh đó, đảng có quyền kết tội “Việt Gian”, “Phản Động” cho bất cứ ai không đồng tình với những việc làm tai ác của Đảng. Đảng cướp đời thường không đặt ra cái luật quái gở: “Tài sản đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, đảng cuớp quản lý”. Ở hải ngoại, ai nói đến vụ ăn cắp, ăn bẩn PMU hoặc PCI thì Nhà Nước Cộng Sản quy cho người đó cái tội nói xấu Tổ Quốc. Một thứ ăn cắp, ăn trộm mà tự đồng hóa mình với Tổ Quốc, Dân Tộc là điều đáng phỉ nhổ.

Mới đây, em nhận ba thư của ba nhà bất đồng chính kiến trong nước: Một của cựu Đại tá Quân Đội Nhân Dân Phạm Quế Dương ở Hà Nội, một của luật sư Trần Lâm ở Hải Phòng và một của nhà giáo Nguyễn Thượng Long ở Hà Tây. Ba thư ấy đều phàn nàn Nhà Nước dùng bọn bồi bút bôi nhọ, mạ lỵ Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang về tội thựchiện tờ báo điện tử Tổ Quốc để làm tiền. Em đã gọi điện thoại thăm anh Phạm Quế Dương, luật sư Trần Lâm để hỗ trợ tinh thần và ca ngợi sự dũng cảm của hai anh ấy. Luật sư Trần Lâm cho em biết vẫn thường gặp gỡ anh khi có dịp lên Hà Nội. Riêng nhà giáo Nguyễn Thượng Long em gọi nhiều lần, nhưng có lẽ đường dây điện thoại đã bị cắt. Sau cùng, em gọi anh Nguyễn Thanh Giang để khuyên anh ấy đừng phiền muộn, nhụt chí vì bọn bồi bút hoặc kẻ đố kỵ. Em cũng đã động viên chị Tuyết Mai – phu nhân của anh Giang – hỗ trợ tinh thần anh ấy để vượt qua những trù dập của chế độ. Em ví những nhà tranh đấu dưới chế độ độc tài toàn trị giống như người tự nguyện thí phát đi tu. Mà tu giữa chợ, đầy dẫy điều thị phi, oan trái. Các anh còn bận tâm vì những lời lẽ bất xứng của bọn bồi bút, bọn đố kỵ ghen ghét là còn mắc mưu chế độ. Em nói bây giờ Nhà Nước “đánh” anh như thế hãy còn nhẹ so với thời kỳ ông Hồ làm Chủ tịch Nước kiêm Chủ tịch Đảng. Rồi em đọc cho anh Thanh Giang nghe bài thơ của nhà văn Nguyễn Công Hoan hỗn láo với Cụ Phan Khôi:

“Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi!
Thọ mi, mi chúc, chớ hòng ai.
Văn chương Đù mẹ thằng cha bạc!
Tiết tháo! Tiên sư cái mẽ ngoài.
Lô-dích, trước cam làm kiếp chó,
Nhân Văn nay lại hít gì voi.
Sống dai thêm tuổi cho thêm nhục,
Thêm nhục cơm trời chẳng thấy gai.”

Đấy là “văn hóa chửi” dưới triều đại Hồ Chí Minh của anh đó, anh Thanh Giang à! Nghe em nói vậy, anh ấy chỉ cười nhẹ, chứ không có lời biểu đồng tình hay phản bác. Em cảm thông tình cảnh “cá chậu chim lồng” của người dân phải sống dưới chế độ bạo ngược, không ai dám đả động cái “bàn thờ”. Mặc dầu sách quốc văn giáo khoa thư không thấy dạy phải gọi quân ăn cướp bằng “ông”, nhưng trong các bài viết em không bao giờ dùng chữ “thằng” để gọi các lãnh đạo “đảng cướp” cộng sản bằng “thằng”, giống như họ thường dùng khi gọi các lãnh đạo Miền Nam.

Em cho rằng vì cái định mệnh nghiệt ngã của dân tộc ta mới nẩy nòi ra nhân vật Hồ Chí Minh, một diễn viên thủ vai “kép ác” trong kịch bản bi thảm. Không phải ông Hồ mà nếu Trần Phú hay Lê Hồng Phong lãnh đạo cộng sản thì hậu quả cũng như ngày hôm nay, vì đó là bản chất của chủ nghĩa cộng sản. Giá như nước ta không bị thực dân Pháp tham lam, ngu muội đô hộ thì thứ “cỏ cộng sản” (chữ của Cụ Phan Khôi) không thể có cơ sinh sôi tràn lan được. Bằng cớ là tất cả các thuộc địa của Anh Quốc không bị nhuộm đỏ. Nhân đây, em xin tường thuật hầu anh câu chuyện này để anh thấy cái xui tận mạng của Đất Nước mình: “Thầy em – cố bác sĩ Đặng văn Dư, làm Đổng lý văn phòng cho Thủ tướng Trần Trọng Kim – kể lại với Đẻ em rằng khi Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh thì có một viên Tướng Nhật (lâu ngày nên quên mất tên) đến văn phòng Thủ tướng đề nghị:
– Thưa Ngài, dù chúng tôi thua trận, nhưng quân đội chúng tôi thừa sức tiêu diệt Bộ Tham Mưu Cộng sản Đông Dương trong vòng 24 giờ đồng hồ để giúp Đất nước Ngài tránh hiểm họa trong tương lai.

Cụ Trần trọng Kim là một nhà Nho đạo đức, có tinh thần tự chủ cao, nên khước từ và nói:
– Xin cám ơn Tướng quân, nhưng việc nội bộ của chúng tôi, xin hãy để chúng tôi tự xử trí với nhau.”

Quân nhân Nhật có truyền thống bảo hoàng trọng vua chúa, nên họ nhất định không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản. Lúc bấy giờ Việt Nam cũng là quốc gia đang có vua, do đó họ muốn tiễu trừ cộng sản để tránh họa cộng sản lan sang nước họ. Giá như Cụ Trần trọng Kim thấy trước cộng sản gây tai họa ghê gớm cho đất nước mình như ngày hôm nay thì cái đạo đức Nho gia của Cụ đáng chê trách. Chẳng qua vận nước mình xui đơn xui kép: Vừa bị thực dân Pháp tham lam ngu muội đô hộ, vừa gặp phải nhà lãnh đạo “quân tử Tầu” không có viễn kiến. Đó là lý do vì sao em gọi “định mệnh nghiệt ngã dân tộc”. Nếu trường Đại học Mỹ thuật Đức nhận đơn xin nhập học của Hitler thì chắc chắn không có hỏa lò Holocaust giết hàng triệu người Do Thái và Thế chiến II không xảy ra. Nếu thực dân Pháp nhận đơn xin vào học trường Thông Ngôn của ông Hồ thì ông Hồ không mang tội ác với dân tộc Việt Nam đến thế. Hoàn cảnh nghiệt ngã đó đã đẩy anh em trong họ hàng mình mỗi người một phía thật là đau thương. Anh Phan Huy Quát, anh Đặng văn Sung – mặc dù được Pháp đào tạo – nhưng chống Pháp mà không tham gia Mặt trận Việt Minh vì các anh ấy sớm nhìn ra chân tướng cộng sản.

Lúc còn ở hậu phương, em đã reo hò mỗi khi nghe tin anh chiến thắng giặc Pháp. Em từng vung quả đấm tay hoan hô Hồ Chí Minh. Nhưng sau năm 1953, em được tin bác Thượng Hướng, bác Tham Oánh và chú Phủ Cận bị cộng sản đấu tố cho đến chết trong chiến dịch phóng tay phát động quần chúng “Cải Cách Ruộng Đất” là em thề không đội trời chung với cộng sản. Anh Việt có biết người bà con trong họ mình tên là Chắt Yêng – đảng viên cộng sản – bại liệt cả hai chân từ bé, ở Nghệ An, đang làm Chủ tịch Xã, vì quá kinh hoàng khi chứng kiến cảnh đấu tố hai bác, chú Phủ nên chờ đến canh khuya bò lết ra giếng để tự tử không? Anh Việt có biết một thanh niên khác ở quê Nghệ An mình rất khôi ngô, được dân trong làng gọi là Cậu Tú (có lẽ đỗ Tú Tài), thừa hưởng tài sản của bố mẹ để lại khoảng 10 mẫu ruộng, tối ngày chỉ cỡi ngựa rong chơi đây đó, ruộng thì giao cho nông dân cấy rẽ, tới mùa được dân chia thóc cho mà không hề biết phần mình bao nhiêu. Sự dễ dãi hào phóng của Cậu Tú rất được dân yêu qúy, cho nên khi cuộc đấu tố xảy ra, Đội không biết vin vào tội gì để đấu, ngoài cái tội đã lớn mà không lấy vợ. Thế là Đội bày cho mấy chị nông dân tố giác Cậu Tú hiếp dâm họ. Bị các cô, các bà mắng chửi, đánh đập, vu cho những hành động hiếp dâm hết sức thô bỉ, tục tằn, Cậu Tú vẫn đứng yên chịu trận. Cuối cùng Tòa án Nhân dân ra lệnh xử tử hình, nhưng để tỏ ra nhân đạo, Tòa ban cho “tội nhân” một ân huệ được phép nói lời cuối cùng. Cậu Tú chẳng nói, chẳng rằng, bỗng lẹ tay tụt quần xuống để phô ra bộ phận sinh dục chỉ nhỏ bằng quả ớt hiểm. Hóa ra Cậu Tú là một loại “Thái Giám” bẩm sinh. Biết Đội đấu tố Cậu Tú tội hiếp dâm là sai lầm, nhưng Tòa án Nhân dân rất nhanh trí, ra lệnh: “Hãy chém đầu ngay lập tức vì tội vô lễ, dám tụt quần trước mặt Nhân dân!”. Nhà văn Tô Hoài còn thuật nhiều kịch bản ghê rợn không kém trong tác phẩm “Ba Người Khác”. Anh Việt thử kiểm điểm xem trong lịch sử dân tộc mình có thời đại nào dã man, tai ác như thế không?

Bác Thượng Hướng – thân phụ anh – được Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng trong chính phủ Liên Hiệp; bác Tham Oánh – thân sinh anh Khoáng – cũng do đích thân Hồ Chí Minh mời làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt ở Liên Khu Tư vì hai bác nổi tiếng là những vị quan thanh liêm, được nhân dân kính trọng, bởi lẽ lúc bấy giờ Hồ Chí Minh cần những nhân vật có uy tín với quần chúng – tầm cỡ như Cụ Huỳnh Thúc Kháng – hợp tác và cần tạo bộ mặt đoàn kết quốc gia. Hai bác đều có con đang là đảng viên cộng sản (anh và anh Khoáng), giống như bà Nguyễn thị Năm ở Hải Phòng từng nuôi Đảng, có con đang là Chính ủy Trung Đoàn, đều bị giết một cách nhục nhã, thê thảm. Hồ Chí Minh luôn luôn chối tội, đổ lỗi cho cấp dưới làm bậy. Thế mà anh Việt cũng tin được? Chính chủ trương “đào tận gốc, trốc tận rễ” của ông Hồ đã gieo cái chết oan ức cho hai bác và họ hàng mình. Nếu ở trong trường hợp của anh, em sẽ tìm đường vượt tuyến vào Nam, quyết chí phục thù cho bố và dòng họ. Với biệt tài quân sự của anh từng đánh cho quân Pháp tơi bời, chắc chắn ông Ngô Đình Diệm sẽ trọng dụng, giống như ông Diệm đã trọng dụng anh Trần Chánh Thành và nhiều nhân vật khác từ Chiến khu ra.

Em được biết anh gửi hàng chục lá đơn cho Phạm văn Đồng, cho Bộ Chính trị để yêu cầu trả lại danh dự cho bác, nhưng họ không thèm hồi đáp một lời, phớt tỉnh Ăng-lê như thể không hề nhận được thư khiếu nại. Đó là thái độ cao ngạo, trịch thượng rất khả ố của tập đoàn lãnh đạo cộng sản vô giáo dục. Em viết lại việc cộng sản “vắt chanh bỏ vỏ” là một hình thức công khai phục hồi danh dự cho những vị quan thanh liêm yêu nước thương nòi cũng bị chết oan dưới bàn tay Hồ Chí Minh, chứ chẳng phải em muốn khơi lại vết thương quá khứ. Anh em ta có thể tha thứ bọn chúng, nhưng không bao giờ quên tội ác chúng gây ra. Người Do Thái vẫn còn lùng sục khắp hang cùng ngõ hẻm tìm từng tên sát nhân Đức Quốc xã để mang về nước trị tội, dù chính phủ Đức đã công khai xin lỗi Do Thái. Hành động săn bắt đó không phải vì lòng báo thù dai dẳng, nhưng phải trừng phạt những tên sát nhân để cảnh báo những tên sát nhân tương lai phải suy nghĩ trước khi nhúng tay vào tội ác.

Năm lên 17 tuổi, em được ba đảng chống Cộng cho người đến tiếp cận. Em vốn không phải là người có tham vọng chính trị, chỉ ưa thú tiêu dao như Tản Đà, nhưng vì thù ghét cộng sản đã hãm hại dòng họ mình, nên em nghĩ phải tham gia một tổ chức thì chống Cộng mới hữu hiệu. “Không có tổ chức là không có gì cả”, hình như ông Lénine đã phát biểu như thế, phải không anh Việt?

Em không vào đảng Cần Lao – đảng đang cầm quyền – vì người cán bộ tổ chức hứa nếu vào đảng thì sẽ được bố trí cho đi học ngoại quốc sau khi đỗ Tú tài II. Em tham gia Đại Việt vì nhận thấy người cán bộ tổ chức của đảng này có vẻ chững chạc, lưu loát hơn anh cán bộ Quốc Dân Đảng, chứ em không đủ tầm kiến thức để đánh giá chủ nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn của Trương Tử Anh hay ho hơn chủ nghĩa Tam Dân của Nguyễn Thái Học. Vì đảng Đại Việt chống chính quyền Ngô Đình Diệm, có đảng trưởng Hà Thúc Ký lập Chiến khu Ba Lòng chống lại chế độ, tụi em phải sinh hoạt bí mật như hội viên Hội Kín thời Tây. Về sau em mới biết anh Bút, anh Nghiên, anh Sung, anh Quát đều là đảng viên Đại Việt. Sau khi gia nhập Quân đội, em không còn sinh hoạt Đảng nữa. Lúc đủ trí khôn hơn, em nhận thức rằng anh Hà Thúc Ký lập Chiến Khu Ba Lòng chống lại chế độ là sai lầm, chỉ làm lợi cho cộng sản mà thôi.

Ông Hồ đã ra người thiên cổ, chẳng lợi ích gì khi cứ đổ lỗi cho ông ta. Vấn đề là tại vì đảng cầm quyền cứ bắt dân chúng phải học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, thần thánh hóa một nhân vật có cuộc đời không lấy gì làm đẹp đẽ. Chị Thiếu Anh gửi tặng em một tác phẩm của chị trong đó có lời lẽ nói đến ông Hồ một cách trân trọng, mặc dầu thân sinh chị là Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm – một vị quan Tế Tửu thay thế Ông Nội anh em mình, rất thanh liêm – bị đấu tố cho đến chết, khiến em rất buồn. Em nghĩ rằng sống dưới chế độ bắt buộc phải tôn sùng Hồ Chí Minh, chị không thể nói lên sự phẫn uất đối với kẻ đã giết cha mình thì đành im lặng; chứ sao chị lại viết sách ca tụng? (Chị Thiếu Anh là chị dâu cả của người viết, vợ của bác sĩ Đặng văn Ấn và là em gái út của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện – Ghi chú của người viết).

Có lần em nghe anh Vũ Cao Quận tỏ ra ân hận vì sự nghiệp “xẻ dọc Trường Sơn cứu nước” giống như các nhà cách mạng lão thành hối tiếc đã xả thân vì chủ nghĩa cộng sản. Hình như trong bà con mình có nguời là đảng viên cộng sản hơn 50 năm cũng ôm nỗi thống hận ấy? Giá như người đang cầm quyền có chút lương tri để sám hối thì may cho dân tộc mình biết mấy. Nhưng các anh không nên ân hận vì các anh bị lừa, bị bịt mắt. Người cần bày tỏ niềm ăn năn là Đại tướng Võ Nguyên Giáp kia kìa. Ông ta được thế giới ca ngợi là anh hùng, nhưng không hành xử xứng đáng với danh hiệu đó. Tướng Giáp là một trong những “Cha Đẻ” đảng CSVN, nay dù hai mắt đã lòa thì tai cũng còn đủ nghe tiếng khóc than thống thiết của dân oan cách ngôi biệt thự của ông ở số 30 đường Hoàng Diệu không xa lắm. Tham nhũng đục khoét xứ sở tan hoang; quan chức hà hiếp bóc lột dân lành hơn thời Thực dân đô hộ, ông Đại tướng hồn nhiên đóng bộ đại bạch phục, ngực mang đầy huy chương ngồi cạnh Lê Đức Anh dự Đại Hội 10 mà không biết xấu hổ thì rõ ràng chủ nghĩa làm cho nhà quân sự đại tài (!) mất hết tính tự trọng. Ở vào tư thế thuộc hàng cha chú của các lãnh đạo hiện nay, ít nhất Tướng Giáp cũng phải nói được một câu như nhà thơ Bùi Minh Quốc tỏ ra hối tiếc vì tạo ra cỗ máy cộng sản ác ôn này. Đúng là cây gì sinh quả ấy, Tổng Bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu đấu tố cha, thì nay hàng con cháu như Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng không xem “Cha Đẻ” của Đảng ra gì. Ông Giáp viết được một hai đề nghị gửi đăng báo thì bọn lãnh tụ “Con Cháu” bãi chức Tổng Biên tập báo để dằn mặt!

Anh Việt rất qúy mến của em,
Cái lỗi lớn đối với Tổ Quốc là Miền Nam đã để cho Miền Bắc xâm chiếm. Vì Miền Nam có một nửa phần đất trù phú, mưa thuận gió hòa, tương đối tự do nhưng không biết qúy giá để tận lực giữ gìn. Miền Nam đã không triệt để chống Cộng sản độc tài, mà chỉ cật lực chống nhau. Hoặc không chống lẫn nhau thì thờ ơ thây kệ bao nhiêu “thằng lính” chết ngoài mặt trận cũng mặc. Người Miền Bắc khi vào Nam đã khóc than với thân nhân “tại sao không ra giải phóng Miền Bắc” là điều có thật! Họ nói rằng nếu Nixon tiếp tục phong tỏa Cảng Hải Phòng thêm một tuần nữa là chúng đầu hàng.

Tướng độc nhãn Moshe Dayan của Do Thái nổi danh thế giới là nhà quân sự đại tài đã đánh bại liên quân Ả Râp trong vòng 6 ngày vào năm 1967. (Ở đây em xin ra ngoài lề một chút. Chẳng phải nịnh anh, em nghĩ rằng anh cũng là một thiên tài quân sự, vì anh chưa từng được đào tạo ở một trường chỉ huy quân sự nào mà với vũ khí thô sơ, anh đã làm cho quân Thực dân Pháp kinh hồn bạt vía đến nỗi chúng phải phong cho anh danh hiệu Hùm Xám thì đủ hiểu. – Danh hiệu ấy do chính kẻ thù tôn vinh, chứ không phải anh tự đặt, mới đáng trọng và đáng qúy – Em nghe luật sư Trần Lâm nói anh đang viết lại cuốn sách Con Hùm Xám Đường số 4 một cách đầy đủ hơn. Vậy bao giờ xong, anh nhớ cho em một cuốn nhé! Em mong anh viết đúng sự thật lịch sử. Nếu anh buộc lòng phải giữ “lề phải” theo quy định của chế độ độc tài, không dám viết ra SỰ THẬT thì thà đừng viết là hơn. Chẳng biết ông Chính ủy Trung đoàn, con trai bà Nguyễn thị Năm, còn sống hay đã chết. Nếu ông ấy còn sống, viết sách ca ngợi đạo đức Hồ Chí Minh thì chắc chắn vong hồn Bà Năm không thể nào ngậm cười nơi chín suối!)

Khi thôi đảm trách chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại Giao, Tướng Dayan đến thăm viếng Miền Nam với tư cách thông tín viên của đại nhật báo Do Thái. Trước khi ông rời Sài Gòn, một nhà báo Việt hỏi liệu ông có một lời khuyên nào để Miền Nam chiến thắng cộng sản. Không một chút do dự, Tướng Dayan trả lời bằng một câu ngắn gọn: “Miền Nam hãy thua cộng sản trước đi đã, rồi sẽ thắng”. Lúc bấy giờ báo chí Sài Gòn có những bài đả kích Tướng Dayan, vì họ cho rằng lời phát biểu của ông ta có chủ đích xúi Hoa Kỳ bỏ rơi Việt Nam để dồn nguồn lực tài chánh viện trợ Do Thái. Riêng em có suy nghĩ không đồng tình với quan điểm của báo chí Sài Gòn, nhưng cũng không đủ tự tin vào sự suy nghĩ của mình chính xác, nên em đến tham khảo ý kiến anh Đặng văn Sung tại tòa báo Chính Luận. Mặc dầu anh em tuổi tác cách xa nhau, nhưng anh Sung luôn luôn tỏ ra kiên nhẫn, chịu khó lắng nghe, chứ không bao giờ xem chú em là một sĩ quan trẻ nông nổi chỉ biết lái máy bay, không có hiểu biết chính trị. Sau khi chìa bao thuốc mời em một điếu, anh Sung từ tốn hỏi:
– Chú hãy nói cho mình nghe chú nghĩ như thế nào về lời khuyên của ông Tướng Moshe Dayan?

Thưa anh Việt, em xin tường thuật những gì em đã nói với anh Sung trong buổi gặp gỡ đó để anh Việt nhận định:

“Thưa anh Sung, Tướng Moshe Dayan đến viếng thăm Việt Nam không chỉ đơn thuần với tư cách nhà báo, ông ta nguyên là Bộ trưởng Quốc phòng, Ngoại Giao của Do Thái, tất nhiên tòa Đại sứ Do Thái phải thuyết trình cho ông ta nghe rất kỹ tình hình chính trị Việt Nam. Khả năng tình báo Do Thái còn được đánh giá cao hơn CIA của Hoa Kỳ, do đó em nghĩ lời phát biểu của ông Tướng Dayan phản ảnh một sự thật mà chúng ta không dám chấp nhận. Sự Thật đó là Miền Nam mang danh nghĩa chống Cộng nhưng không ý thức hiểm họa cộng sản. Nếu chúng ta ý thức được hiểm họa cộng sản thì không bao giờ chia rẽ nhau, tranh quyền đoạt lợi để tình hình an ninh càng ngày thêm sa sút. Cộng sản càng ngày càng lấn về thủ đô. Em đã reo mừng khi Quân Đội đứng lên chấm dứt chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nhưng sau đó vô cùng thất vọng khi các ông Tướng cho phép mở vũ trường để nhảy nhót thâu đêm suốt sáng, ăn chơi tối đa mà lại đầy tham vọng chính trị nên đã bị giáo phái, chính đảng giật dây, cứ đảo chánh, chỉnh lý triền miên khiến cho ý chí chiến đấu của anh em binh sĩ vô cùng chán nản. Giết hai ông Diệm, ông Nhu rồi ném xác trong thùng chiến xa đã tạo nên hình ảnh xấu đối với thế giới, còn sợ Trí Quang đến nỗi Nguyễn Khánh ra lệnh xử tử hình ông Ngô Đình Cẩn đang lâm trọng bệnh là hành động man rợ đáng ghê tởm. Ông Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình quan lại phong kiến, có đầu óc thủ cựu hẹp hòi, không chịu cởi mở, nhưng ông ta thật sự là một nhà ái quốc. Ông Ngô Đình Diệm từng rũ áo từ bỏ chức Thượng thư Bộ Lại (ngang với Thủ tướng ngày nay) vì chống lạiThực dân Pháp. Nếu ông ta không chống lại yêu sách của Hoa Kỳ đòi đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam thì Trí Quang và Dương văn Minh chẳng thể nào lật ông Diệm nổi. Luận điệu tuyên truyền Ngô Đình Diệm là tay sai Đế quốc Mỹ phát xuất từ Miền Bắc. Bất luận một ai khác muốn ngăn chặn làn sóng đỏ đều phải trông cậy vào sức mạnh của Hoa Kỳ, chứ nào phải riêng gì Ngô Đình Diệm! Ông Diệm là người được vua Bảo Đại giao trọng trách thành lập Nội Các, chứ ông ta đâu có “cướp chính quyền” hoặc cậy cục xin làm Thủ Tướng? Ông Diệm tổ chức bầu cử truất phế vua Bảo Đại vì Ngài không chịu về nước cứu dân, mà cứ ở lỳ bên Pháp đánh bạc. Đáng tiếc là khi về nước chấp chánh, ông Diệm không có một đội ngũ cán bộ chính trị, quân sự đủ khả năng và trung thành với lý tưởng tự do. Phần lớn sĩ quan đều do Tây đào tạo và có tinh thần “vọng Tây”. Ông Tướng “tây con” Nguyễn văn Hinh được ông Diệm trao chức Tổng Tham Mưu trưởng, chẳng biết khả năng đánh giặc tới đâu, dám nói thẳng vào mặt ông Diệm: “Tôi không biết ông là ai” thì lãnh tụ nào chấp nhận được? Bọn nịnh thần đã làm biến chất người lãnh đạo. Dù sáng suốt đến mấy mà bị bọn nịnh thần vây quanh riết rồi cũng thành mê muội.

Dù sao ông Diệm đã có công dẹp phiến loạn Bình Xuyên đem lại sự ổn định một thờigian dài, định cư hơn một triệu người Miền Bắc tị nạn cộng sản, lập khu canh tác dinh điền, khai khẩn đất hoang, xây dựng nền giáo dục khai phóng và đặc biệt trong sạch, sống đạm bạc, không ăn cắp, tham nhũng như các ông bà Tướng hiện nay. Người ta đồn đãi chế độ Ngô Đình Diệm độc ác, nhưng sự thật không phải như vậy, nếu đem so sách chế độ cộng sản ở Miền Bắc.

Bọn cộng sản tuyên truyên ông Diệm kéo lê máy chém khắp Miền Nam để chém đầu cộng sản là một sự xuyên tạc trắng trợn. Em từng đi suốt dãi đất Miền Nam mà chưa bao giờ thấy hình thù chiếc máy chém ra sao. Chỉ có một mình Lê Quang Vinh, tự Ba Cụt là bị chém đầu mà thôi. Nhưng Ba Cụt là loạn tướng Bình Xuyên, chứ không phải cộng sản. Thanh niên Hà Minh Trí ám sát ông Diệm ở Ban Mê Thuột, bị tòa kêu án tử hình, thì ông Diệm ký giấy tha. Anh Hà Thúc Ký của Đảng Đại Việt ta lập đài phát thanh bí mật, âm mưu ám sát ông Diệm, mang quân ra Ba Lòng lập chiến khu. Sau khi ông Diệm dẹp xong chiến khu, anh Ký không bị tử hình, quân nhân phản nghịch không bị tù tội, chỉ bị phạt quân kỷ. Ngoài ra ông còn chỉ thị cho anh Cao Xuân Linh, em anh Cao Xuân Vỹ ngầm giúp đỡ chị Hà Thúc Ký nuôi các cháu ăn học. Ở Miền Bắc, một người chỉ bị tình nghi tội phản động là cả họ đều bị điêu đứng, trong khi ở Miền Nam những người chống ông Diệm thì đâu có gia đình nào bị liên lụy? Chính anh, anh Quát cũng là người chống ông Diệm, nhưng chị Sung, chị Quát và các cháu đâu có bị chính quyền ông Diệm gây khó khăn? (Bà Nội chúng tôi là con gái đầu lòng của Cụ Đông Các Cao Xuân Dục, cho nên họ Đặng văn và Cao Xuân có mối liên hệ bà con với nhau – Ghi chú của người viết).

Bác sĩ Trần Kim Tuyến, Giám đốc sở Nghiên cứu Chính trị – một cơ quan tình báo trá hình – có kể cho em nghe câu chuyện về ông bác sĩ PQĐ tham gia cuộc đảo chánh của ông Nguyễn Chánh Thi năm 1960 thất bại, bị Công An bắt. Dù chưa bị tra khảo, bác sĩ PQĐ đã khóc lóc rất thảm thiết và viết tờ thú tội rất lâm ly. Nhân viên an ninh trình cuốn băng thu âm cùng mấy trang giấy thú tội cho bác sĩ Tuyến và đề nghị ông Cố vấn Ngô Đình Nhu cho phát thanh cuốn băng ghi âm trên đài, đăng báo tờ tự thú nhằm hạ bệ uy tín nhà cách mạng. Nhưng ông Nhu gạt đi và nói: “Chúng ta là người trí thức mà làm nhục người trí thức thì chẳng hơn gì cộng sản Hà Nội”. Em đã kiểm chứng câu chuyện này với anh Cao Xuân Vỹ và được anh Vỹ xác nhận là đúng. Vậy anh có bao giờ nghe bác sĩ Tuyến nói về việc này hay không? Anh Sung trả lời: “Mình từng sinh hoạt với ông Nhu vào thời gian đầu. Ông Nhu là con người lắm mưu mô, nhưng không phải là người có thủ đoạn tàn ác. Đúng như chú nói, Anh Quát (tức là cựu Tổng trưởng Quốc phòng Phan Huy Quát dưới thời Bảo Đại – anh rể của Hùm Xám Đặng văn Việt – có một thời gian làm Thủ tướng – Ghi chú của người viết) và mình bất đồng chính kiến với ông Nhu nhưng ông ta không ra lệnh bắt bớ. Chuyện bác sĩ Tuyến kể với chú, mình có nghe vài anh em khác nói đến, chứ không phải từ bác sĩ Tuyến”.

Anh Sung ạ! Em sắp sửa nói với anh điều này, xin anh đừng giận em. Hai đảng cách mạng có tên tuổi, có quá trình chống Pháp, chống Cộng sản đã phạm cái tội rất lớn với lịch sử. Họ đã không đoàn kết nhau thành một khối để có sức mạnh nhằm củng cố nền dân chủ ở Miền Nam và đủ khả năng chống lại cuộc xâm lược của Miền Bắc. Các anh từng là đồng chí trải qua biết bao nhiêu gian khổ, tù tội mà anh, anh Phan Huy Quát, anh Bùi Diễm, anh Hà Thúc Ký, anh Nguyễn Tôn Hoàn, anh Nguyễn Ngọc Huy thì mỗi người đi một hướng, chẳng chịu ngồi lại với nhau. Bên Quốc Dân Đảng cũng vậy, Cụ Vũ Hồng Khanh, nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, luật sư Trần văn Tuyên … mỗi người một hệ phái. Rồi phía Phật giáo là tôn giáo của đa số đồng bào Việt ta cũng chia phe Việt Nam Quốc Tự - phe Ấn Quang, cứ tổ chức lên đường xuống đường để bị cộng sản lợi dụng mà quên đi rằng cộng sản xem tôn giáo là thuốc phiện. Tướng lãnh thì không ông nào đề ra được một sách lược quân sự hữu hiệu để bảo vệ đồng bào, lãnhthổ. Hàng ngũ trí thức là lực lượng lãnh đạo dân tộc thì một số sống trong tháp ngà, một số làm dáng tả khuynh như các ông trí thức Phương Tây, mà không cần biết Đất Nước mình đang chống lại một chủ nghĩa phi nhân, tàn ác nhất trong nhân loại. Ví dụ, giáo sư Nguyễn văn Trung và giáo sư Lý Chánh Trung viết sách, viết báo cổ súy Miền Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa không cộng sản như các nước Bắc Âu là hoang tưởng, viễn mơ. Sở dĩ các nước nhỏ ở Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch thực hiện được xã hội chủ nghĩa tư sản là nhờ sức mạnh của khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) do Hoa Kỳ lãnh đạo. Nếu không có khối này thì chiến xa Xô Viết cày nát các tiểu quốc ấy trong vòng một tuần lễ là xong. Em tin chắc rằng tòa Đại sứ Do Thái đã thuyết trình cho Tướng Moshe Dayan biết rõ tình hình chính trị Miền Nam thì ông ta mới phát biểu “Miền Nam hãy thua cộng sản đi đã, rồi sẽ thắng”, nghĩa là phải nếm mùi cộng sản, rồi sau đó mới hiểu được sự dối trá của chiêu bài “Giải Phóng Miền Nam” thì may ra người Miền Nam mới tỉnh ngộ. Tưởng Giới Thạch thua Mao còn có đảo Đài Loan để dung thân. Miền Nam mà chỉ lo xâu xé lẫn nhau để thua Hồ thì đâu còn đường nào mà chạy khi cộng sản tràn vào? Em còn định nói nhiều hơn nữa, nhưng xem chừng anh Sung có vẻ mệt tai khi nghe chú em nói toàn chuyện tiêu cực, nên anh đề nghị hai anh em cùng đi ăn trưa với nhau, rồi bàn tiếp”.

Anh Việt thân mến,
Em tóm lược những ý chính cuộc trao đổi giữa anh Sung và em để anh biết rằng trước năm 1975 em đã có mối âu lo cho tương lai của Miền Nam, nhất là sau khi Nixon sang bắt tay với Mao Trạch Đông. Trong khi ấy, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu chỉ tìm mọi mưu mô để bảo vệ chiếc ghế của mình. Ông Thiệu dùng thủ đoạn bít lối các ứng cử viên khác để độc diễn là đã làm mất chính nghĩa của nền dân chủ rồi; sau đó dùng tiền mua chuộc các vị dân cử Quốc hội sửa luật để có thể tranh cử nhiệm kỳ ba. Ngày nay có những người thuộc chế độ Miền Nam ngây ngô oán trách Hoa Kỳ “đểu”, nỡ bỏ rơi đồng minh. Thật sự Miền Nam không xứng đáng là đồng minh, vì chỉ biết ngửa tay xin chứ không chuẩn bị tự lực tự cường. Một bên – Miền Bắc – quyết tâm xâm chiếm Miền Nam bằng mọi giá, mọi thủ đoạn; một bên – Miền Nam – coi việc đấu đá nhau trong nội bộ là chủ yếu, đoàn kết củng cố sức mạnh để tự tồn là không cần thiết. Miền Nam không thua về phương diện quân sự ngoài tiền tuyến, nhưng thua về phương diện chính trị ở hậu phương, vì có lắm thành phần tư thông với giặc. Là một sĩ quan Không Quân từng vận chuyển nhiều quân binh chủng khác nhau, em biết quân sĩ Miền Nam vô cùng dũng cảm. Họ là những con sư tử bị lãnh đạo bởi những con cừu béo tốt, vừa bất trí vừa tham sống sợ chết. Lúc nước còn yên ổn thì lo vơ vét, mua quan bán chức; lúc lâm nguy thì cả Tổng thống lẫn Thủ tướng ôm của cải, vợ con bí mật tháo chạy, thây kệ quân binh dưới quyền sống chết mặc bây.

Ở quốc gia nào cũng vậy, trí thức luôn luôn là lực lượng lãnh đạo xã hội. Các ông bà trí thức Miền Nam, nói xin lỗi, là những nhà trí thức dở hơi, bắt chước trí thức Phương Tây ra cái điều “khuynh tả” để được đánh giá là trí thức, mà không ý thức rằng Đất Nước đang chiến đấu tự vệ chống lại một phía xem “trí thức là cục phân”. Là quân nhân, bọn chúng em mới thực sự chống chiến tranh, mong muốn hòa bình hơn ai hết, vì chiến tranh càng kéo dài thì nguy cơ tử vong càng cao. Thử hỏi là con người, ai không tha thiết sự sống? Những phong trào đòi hòa bình mà chỉ lên án một phía như thầy tu Nhất Hạnh, ni sư Huynh Liên hoặc thầy tu Nguyễn Ngọc Lan, nếu không phải là Cộng sản thì cũng là công cụ của kẻ thù. Mỗi ngày hàng trăm chiến sĩ bỏ mình để bảo vệ mấy ông bà trí thức nhởn nhơ ở thành phố. Những hạng người như nhà báo Phạm Xuân Ẩn, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Hạ viện Đinh văn Đệ, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh là một bầy ngu xuẩn. Họ được hưởng đặc quyền, đặc lợi của Miền Nam lại bí mật khuôn phò kẻ địch để cuối đời như Phạm Xuân Ẩn trối trăn với vợ con đừng chôn xác ông ta gần mấy cái mả cộng sản! Thầy tu Nguyễn Ngọc Lan lẻn ra bưng tư thông với Trần Bạch Đằng trong khi binh lính Việt Nam Cộng Hòa đang đổ máu để giữ từng tấc đất, mà chính phủ vẫn để yên thì Miền Nam phải mất thôi! Chẳng phải là người háo sát, em nghĩ bất cứ ở đâu trên thế giới, kẻ tư thông với địch trong thời chiến đều phải chịu tội tử hình.

Nếu không nhờ Mỹ đưa ông Diệm về cố thủ Miền Nam thì cả nước đã rơi vào tay cộng sản từ năm 1956 rồi. Các chú tiểu làm sao lên đến chức Thượng tọa để mà tranh đấu? Bằng cớ là thầy chùa Trí Quang – người làm lung lay nước Mỹ – nằm im thin thít từ năm 1975 cho đến nay. Những cậu học trò nhà quê xuất thân trường làng làm sao được gửi đi học ở các nước Phương Tây để khi về nước bày đặt khoác bộ mặt trí thức phản chiến? Trong thời kỳ đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập, những thanh niên yêu nước như anh bỏ trường, bỏ lớp lên đường kháng chiến rồi tuyên thệ vào đảng cộng sản vì không hiểu sự tàn ác, bất nhân của cái chủ nghĩa ấy. Nhưng sau 1954, những thanh niên Miền Nam như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Huỳnh Tấn Mẫm … có học thì phải biết Cộng sản Miền Bắc đày đọa trí thức cỡ nào chứ! Họ cứ khoe đọc sách Pháp, sách Mỹ nên có tư tưởng cấp tiến như Jean-Paul Sartre, như Bertrand Russell. Tại sao không cầm cuốn “Trăm Hoa Đua Nở trên Đất Bắc” của Cụ Hoàng văn Chí mà đọc để biết bao nhiêu công thần đã hiến trọn tuổi thanh xuân cho đảng cộng sản như Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Trần Dần còn bị dở sống dở chết trong lao tù thì cái thứ theo đuôi hít bả mía thì cộng sản coi ra gì? Kỳ thật đám trí thức loại ấy là một bọn ngu dốt vô cùng. Tại sao họ không nhìn thấy một nhạc sĩ chuyên sáng tác những bài ca “phản chiến” như Trịnh Công Sơn được Miền Nam đãi ngộ, mà nhạc của anh ta thì bị Miền Bắc cấm hát? Họ viện cớ chống chiến tranh vì Mỹ đem bom đạn cày nát ruộng vườn Việt Nam. Tại sao họ không biết đặt câu hỏi ai là thủ phạm gây nên cuộc chiến tranh này? Tại sao những nhà trí thức, nhà tu hành theo đuôi cộng sản không hề lên án hàng vạn quân chính quy cộng sản xâm nhập phá hoại Miền Nam hay lên án sự tàn sát của cộng sản hồi Tết Mậu Thân năm 1968? Nếu Mỹ không ném bom xuống quân Bắc Hàn, thì Nam Hàn có được sự tự do, thịnh vưởng như ngày hôm nay không? Hay là đói meo như Bắc Hàn, dùng món võ “cào đầu ăn vạ” để xin viện trợ?

Em từng vận chuyển nhiều cán binh trẻ cộng sảnở Miền Nam và ở Miền Bắc vào, em hỏi họ tại vì sao theo cộng sản. Cán binh Miền Nam nói chúng em ở vùng quê mất an ninh, bị cộng sản bắt lính mà không theo thì bị chúng giết; nhưng đi lính cộng sản bị Cộng Hòa bắt thì cùng lắm bị tù vài năm thôi. Cán binh Miền Bắc thì nói chúng em tình nguyện đi B, tức là vào Nam, để gia đình có miếng ăn, bản thân chúng em thì được Bộ Đội phát áo quần. Tình cảnh khốn khổ đó, thanh niên ở vùng mất an ninh trong Nam, thiếu ăn ở ngoài Bắc theo cộng sản là điều dễ chấp nhận. Học sinh, sinh viên ở thành phố Miền Nam được chính quyền bảo vệ an ninh, sống no đủ mà chạy theo cộng sản là vì bị mấy bọn trí thức nửa mùa, sư sải, cha cố phản chiến “đểu” làm công cụ cho cộng sản viết sách viết báo nhồi sọ. Bây giờ những thứ “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản” đó bị thất sủng, một số tìm đường chạy ra biển thoát thân, sống an nhàn ở các nước tư bản tự do; một số làm bộ phản kháng, bất đồng chính kiến. Thử hỏi nếu được cộng sản tin dùng, liệu có phản kháng không? Thật là tội nghiệp cho người dân đen ít học phải hứng chịu tai họa cộng sản vì mấy “ngài” trí thức … tưởng bở cam tâm làm nội tuyến!

Một Miền Nam hưởng lạc tối đa, chia rẽ nát bấy như tương, tứ bề thọ địch, thù trong giặc ngoài thế mà Miền Bắc phải mất gần 20 năm mới “giải phóng” nổi thì có gì gọi là cuộc chiến thắng thần thánh? Có gì mà huyênh hoang “đỉnh cao trí tuệ loài người?
Năm 1975 Miền Nam đã rơi vào tay Miền Bắc vì nạn chia rẽ, vì kẻ nội thù. Bây giờ cả nước Việt Nam sắp rơi vào tay Trung Cộng cũng sẽ vì nạn chia rẽ và kẻ nội thù. Kẻ nội xâm mà Nông Đức Mạnh, Phan văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng đang than vãn đó chính là các quan chức tham nhũng khủng khiếp ngày nay. Em lo âu Đất Nước biến thành Giao Chỉ Quận, cho nên sau Đại Hội 10 của Đảng CSVN, em có viết bài “Cơ Hội Bằng Vàng” để vừa động viên, vừa cảnh tỉnh ba ông Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng.

Đã có rất nhiều nhà trí thức như Hà Sĩ Phu, nhiều cách mạng lão thành như Tướng Trần Độ, giáo sư Hoàng Minh Chính … đã lên tiếng góp ý với Đảng để đưa Đất Nước đi lên, nhưng người thì bị tù đày, người thì bị tước thẻ Đảng, kẻ thì bị Đảng dùng côn đồ dùng nước phân pha với mắm tôm tạt vào nhà. Em nghĩ, người cộng sản thờ chủ nghĩa Tam Vô (Vô Gia đình, Vô Tổ quốc, Vô Tôn giáo) mà đem những phương lược quốc kế dân sinh của các bậc đại trí giảng cho họ nghe là điều vô bổ. Vì vậy, em nói đến điều lợi cho bản thân họ thì may ra họ nghe lọt tai? Thứ nhất, em dùng chữ THỜI. Có lẽ vận bỉ của nước sắp qua, nên bỗng dưng có ba ông lãnh tụ ở vị trí cao nhất đều mang họ Nguyễn mà hai ông xuất thân từ Miền Nam. Dù là cộng sản, nhưng có thời gian ngồi trên ghế học đường Miền Nam, hấp thụ nền giáo dục khai phóng thì sẽ khá hơn thứ hoạn lợn, phu đồn điền cao su. Thứ hai, em dùng chữ HIẾU. Cách báo hiếu tốt nhất cho bậc sinh thành là đừng làm điều gì điếm nhục gia phong, mà phải làm vẻ vang dòng họ. Cha mẹ của họ đặt tên cho con là Minh Triết, Tấn Dũng, Phú Trọng tức là kỳ vọng ở con cái mình nếu gặp may leo lên được đỉnh cao quyền lực thì cố gằng làm điều gì lợi ích cho quốc dân để lưu danh thiên cổ. Chẳng lẽ Minh Triết lại cứ bám riết vào tà thuyết cộng sản? Chẳng lẽ Tấn Dũng lại là kẻ hèn hạ nói dối? Chẳng lẽ Phú Trọng cứ bắt dân ôm riết lấy khố rách áo ôm vô sản? Thứ ba, em dùng chữ DANH. Họ đang ngồi trên của cải “tiền rừng bạc biển”, ở nhà cao cửa rộng, quyền hành tuyệt đối muốn cho ai sống làngười đó sống, muốn cho ai chết là người đó chết, nhưng họ bị cả nước khinh bỉ vì cái tội dối trá, lừa đảo, nói một đường làm một nẻo. Em khuyên họ rằng thời kỳ ở bờ sống bụi, rúc ổ chui hang đã qua rồi. Nay đã biết thắt cà vạt, mặc áo cổ cồn, cầm nĩa cầm thìa, dao khi ăn uống, giao lưu với thế giới văn minh, được bắt tay Quốc trưởng, Vua chúa thì hãy tập sống cho ra con người tử tế để đừng làm nhục tổ tiên họ. Hãy cố chữa căn bệnh nói dối leo lẻo, túi đã đầy thì nên ngưng các vụ ăn cắp đi – vì chết thì không thể mang theo – là sẽ được nhân dân yêu kính. Anh Việt thấy không? Em toàn “kiến nghị” những điều lợi ích cho bản thân họ nhưng họ trót giống như người nghiện ma túy, không có thuốc phiện, thuốc lắc là không sống được! Không dối trá, không lừa đảo là họ không sống nổi!

Khi xem truyền hình thấy Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng cười toe toét bên cạnh Tổng thống George W. Bush, em khấp khởi mừng, nên viết bài “Chọn Bạn Mà Chơi”. Các Cụ nhà ta đã dạy: “Học thày không tày học bạn”. Phương Tây cũng có câu: “Anh hãy cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ đánh giá anh là hạng người nào”. Chơi với phường đá cá lăn dưa, tráo trở, lừa thày phản bạn thì khó trở thành người có nhân cách được. Chọn Trung Cộng làm bạn là ngu, bạn cái quái gì mà hơi bất bình một tí thì đòi bợp tai đá đít, dạy cho bài học chết hàng vạn người, nhưng sao cứ cắm đầu cắm cổ mà chơi? Nay kẻ thù truyền kiếp lấn chiếm đất đai của tổ tiên mà hạ lệnh cho Công An đánh đập, bỏ tù dân phản đối là quân bán nước, là phản quốc. Hãy trông gương Đại Hàn mang ơn cứu tử của Mỹ mà vẫn biểu tình chống chính phủ nhập cảng thịt bò của Mỹ cũng không bị Mỹ trả đũa. Chơi với Mỹ, ít ra sẽ học được vài ba bài học về đường lối cai trị của người cầm quyền. Ví dụ học cách đoàn kết nhân dân của Tổng thống Abraham Lincoln sau cuộc nội chiến Bắc Nam. Học cách của Tổng thống Bill Clinton công khai xin lỗi và đền bù cho người Mỹ gốc Nhật bị lùa vào trại tập trung khi có cuộc chiến giữa Hoa Kỳ – Nhật Bản. Chỉ cần áp dụng hai bài học kể trên là cũng đủ khiến cho bộ mặt Việt Nam khác hẳn. “Con đừng học thói gian ngoa, họ hàng ghét bỏ người ta chê cười” là lời dạy của những Bà Mẹ Việt Nam cho mọi đứa con khi mới học nói, mà chẳng ông lãnh đạo nào nghe.

Ở cạnh một nước luôn luôn nuôi giấc mộng bá quyền, xâm chiếm lân bang làm chư hầu, Việt Nam bắt tay làm bạn đồng minh với Mỹ là đúng rồi, giống như trước kia Miền Nam phải bắt tay với Mỹ để ngăn chặn làn sóng đỏ từ Miền Bắc thôi. Nhưng hãy lấy gương Miền Nam mà làm bài học. Nghĩa là phải tự tỏ ra xứng đáng, đừng ỷ lại có bạn bên cạnh rồi tha hồ ăn cắp, đục khoét tài nguyên quốc gia, chia rẽ nội bộ. Đừng thấy Mỹ bỏ Miền Nam mà sợ hãi nửa tin nửa ngờ. Mỹ đâu có bỏ Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn? Đọc mấy bài của các ông Tướng cộng sản viết trong cuốn kỷ yếu đánh dấu 60 thành lập Quân Đội Nhân Dân, em thấy họ nói Mỹ vẫn là kẻ thù nguy hiểm số 1, điều đó chứng tỏ các ông Tướng cộng sản chẳng có hiểu biết gì cả. Có lẽ mấy ông Tướng đó nghĩ rằng đi với Mỹ thì giữ được nước nhưng mất Đảng, nên sợ hãi? Lãnh đạo cộng sản chỉ nơp nớp sợ mất Đảng hơn mất Nước, thành thử họ đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa cũng đúng thôi!

Nguyễn Tấn Dũng lên truyền hình tuyên bố: “Tôi yêu thích nhất là sự chân thật, tôi ghét nhất là sự dối trá”. Thế mà ông ta cứ theo thói của người tiền nhiệm Phan văn Khải chối bay chối biến ở Việt Nam không có tù chính trị vì bất đồng chính kiến, khi bị thế giới nêu lên vấn đề nhân quyền. Cam kết diệt tham nhũng thì bỏ tù nhà báo tố tham nhũng. Thật là trơ trẽn hết chỗ nói. Còn Nguyễn Minh Triết thì dở giọng đạo đức giả bằng cái câu: “Người ta sinh ra ở đời là để mà yêu thương; chứ không phải để mà thù hận”. Sau đó lại nói: “Dù ai có nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 Hiến pháp gì đó thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát...”. Động cơ đấu tranh của cộng sản là hận thù giai cấp, mà cứ giữ Điều 4 thì còn chỗ nào để yêu thương?

Tưởng đâu hai anh chàng gốc Miền Nam từng ngồi học trên ghế nhà trường Miền Nam thì khá hơn. Nhưng bản chất “nói dối” đã ăn sâu vào não bộ quan chức cộng sản mất rồi, hết thuốc chữa! Từ ngày hai ông này lên cầm quyền, tình hành đàn áp dân đen càng tàn bạo hơn, ăn cắp hối lộ càng lộ liễu hơn, những vụ “xì-căn-đan” tồi bại xảy ra khắp năm Châu khiến ai còn chút lương tri cũng phải đỏ mặt, cau mày. Tham lam là thói xấu bẩm sinh của con người, nên Đức Phật dạy chúng sinh cố gắng diệt “Tham, Sân, Si” để làm nhẹ nghiệp chướng. Nói thì dễ, nhưng thực hành thì khó. Do đó các nước dân chủ chia ra tam quyền phân lập kiểm soát lẫn nhau, lại thêm một quyền thứ tư nữa, dù chẳng có quyền bỏ tù ai, nhưng các quan chức “tam quyền” đều phải sợ, đó là quyền tự do ngôn luận phản ảnh dư luận quần chúng. Quan chức Việt Nam ngồi xổm trên luật pháp, lại thêm độc quyền ngôn luận, do đó từ trên xuống dưới thi đua nhau ăn cắp, bao che cho nhau, chẳng ai sợ bị dư luận phanh phui. Người dân đen chỉ có nước è cổ ra chịu trận! Nói sẽ diệt trừ tham nhũng mà không cho phép tự do báo chí là nói dối.

Mới đây viên Đại sứ cộng sản ở Hoa Thịnh Đốn – Lê Công Phụng – trả lời đài BBC về vụ một người Mỹ gốc Việt – Cao Quang Ánh – mới đắc cử vào Hạ Viện Hoa Kỳ bằng một câu phơi bày cả ba căn tính cộng sản: thất học, ngu đần và lưu manh. Thất học mới nói Obama có là Tổng thống Hoa Kỳ đi nữa thì vẫn cứ là người Kenya. Luận điệu đó chứng tỏ óc kỳ thị mầu da, phát biểu như thế chẳng khác nào nói ông George Bush có là Tổng thống Hoa Kỳ đi nữa thì vẫn là người Ái Nhĩ Lan. Làm Đại sứ tại Hợp Chủng Quốc mà không hiểu nước Mỹ gồm nhiều sắc dân có nguồn gốc khác nhau là thất học. Ngu đần vì với câu trả lời đó là vô tình tố giác dù Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng có là Chủ tịch Nước, Thủ tướng đi nữa vẫn là quân ăn cắp, vì tiền lấy ở đâu ra mà hai ông giàu dữ dội đến thế? Lưu manh vì cho rằng Dân biểu Cao Quang Ánh chê trách tình hình nhân quyền tồi tệ ở Việt là chống lại Tổ Quốc. Quan chức cao cấp cộng sản giống như con vẹt được nhồi nhét vào óc một loại bả đậu. Cái thứ người chủ trương “quốc tế vô sản” mà lại đem Tổ Quốc làm mộc che thân thì chỉ có mấy … anh Vẹm! Y hệt như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, khi một ký giả ngoại quốc hỏi, người ta đồn ông là con của ông Hồ Chí Minh phải không? Tổng Mạnh đã hỗn láo, nham nhở trả lởi: “Ở nước Việt Nam, ai chẳng là con cái Bác Hồ?” Cậu trả lời đó vừa xấc láo vừa lưu manh để né tránh câu hỏi. Đúng là cha nào con nấy!

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đặc trách ngành giáo dục đề ra chỉ tiêu đào tạo 100 ngàn Tiến sĩ vào năm 2020. Giáo dục là nhằm đào tạo con người trên ba phương diện: Đức dục, Trí dục, Thể dục; chứ đâu phải trường dạy nghề. Bằng cấp cao mà mang thói bất lương cố hữu của tập đoàn thống trị hiện nay thì càng nguy cho xứ sở hơn nữa. Nhà văn Rabelais đã viết: “Science sans conscience, n’est que ruine de l’âme” (Học mà bất lương thì chỉ là sự hủy hoại tâm hồn). Em dám quả quyết nói với anh Việt rằng CSVN không thể nào cải tổ nền giáo dục được, khi mà người cầm quyền vẫn là tập đoàn lưu manh vô giáo dục. Xin giáo sư Hoàng Tụy đừng mất công bàn về vấn đề giáo dục dưới chế độ này.

Anh Việt kính mến,

Đôi khi đọc lại cuốn tự truyện của anh, em không khỏi bùi ngùi, xót xa cho thân phận Con Hùm Xám. Về hưu, lương không đủ sống, anh bưng thúng bánh cam đi bán ở chợ trời, bị bọn Công An tuổi chỉ bằng cháu ngoại, cháu nội của anh rượt đuổi, vì có lệnh cấm bán hàng rong. Con Hùm Xám từng rượt đuổi quân binh Thực dân Pháp vắt giò lên cổ chạy để dựng lên cái Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa, nay Công An của cái Nhà Nước ấy rượt đuổi Con Hùm Xám về già chỉ vì cái tội “cải thiện” để sống qua ngày. Thật không còn nghịch cảnh nào trớ trêu hơn! Nhưng anh thuật lại bằng một giọng văn bình thản, chẳng chút ai oán thì em phục sự cam chịu của anh thiệt. Rồi anh kể chừng hai trăm sĩ quan cao cấp Pháp (có cả cấp Tướng) bị anh bắt làm tù binh thuở trước, bay sang Việt Nam làm tiệc mừng sinh nhật 80 của anh. Kẻ cựu thù còn có hành động đẹp với anh, trong khi đồng chí của anh rượt anh chạy trối chết! Anh Việt ơi! Có phải đấy là công lao “trồng người” của Bác Hồ vĩ đại để có một xã hội “quái đản” như ngày hôm nay? Tại sao một quân đội oai hùng từng đánh bại hai “đế quốc sừng sõ” mà không xuất hiện nổi một nhân vật đủ tài đủ trí dẹp tan cái đám tham quan ô lại này đi? Vì sao?
Năm 1998,chị Thiếu Anh gửi tặng em cuốn sách “Cụ Hoàng Nho Lâm” do người dân Diễn Châu biên tập và phát hành để tưởng nhớ ân đức Hoàng Giáp Đặng văn Thụy – Ông Nội chúng ta, mà con cháu thường gọi “Ông Tế” một cách cung kính. Em rất trân trọng cuốn sách và thỉnh thoảng mở ra đọc lại những mẩu giai thoại đáng cho mình lấy đó làm tấm gương noi theo. Sách gồm có 53 giai thoại. Em xin nhắc lại hai giai thoại có ý nghĩa thời đại sau đây:

Chuyện thứ nhất kể rằng có một viên tri huyện mới được triều đình bổ nhậm về Diễn Châu đích thân (tức không có lính theo hầu) đi chào Cụ Hoàng Nho Lâm đã về hưu. Đến một chỗ lội trên đường, quan tri huyện lúng túng chưa biết tính sao, bỗng trông thấy một ông già vác cuốc đi ngang, liền gọi ông già đến cõng quan vượt qua chỗ lội. Sau khi được ông già đặt xuống, quan huyện hỏi đường để đến ra mắt Cụ Hoàng Nho Lâm. Ông già lễ phép đáp: “Xin quan huyện đi theo tôi”. Đến nhà, ông già mời quan huyện ngồi chờ ở phòng khách, rồi vào phía sau, tắm rửa sạch sẽ, mặc quần áo chỉnh tề để ra chào quan huyện và nói: “Cụ Hoàng Nho Lâm là tôi đây”. Quan tri huyện sụp lạy, miệng cứ lắp bắp xin lỗi. Cụ Hoàng đưa tay đỡ quan tri huyện đứng dậy và nói: “Khôngsao! Không sao! Ta chỉ nhắc lần sau nhờ người cõng thì nhờ trai trẻ. Nhờ ông già cõng, không phải đạo, ông ạ!”.

Chuyện thứ hai kể rằng Ông Tế thường cải trang thành một nông dân quê mùa chống gậy đi thăm các con đang làm quan ở các nơi. Ông không vào ngay sảnh đường hay tư thất của con, mà đi tìm những nhà dân nghèo xin tá túc qua đêm. Ông hỏi chủ nhà về cách cai trị của quan đầu tỉnh ra sao, hà hiếp dân hay thương yêu dân. Buổi sáng, ông Tế thức dậy sớm, lấy quần áo tươm tất ra mặc. Chủ nhà ngạc nhiên hỏi ông Tế đi đâu sớm. Ông đáp: “Tôi vào trong phủ thăm con”. Chủ nhà lại hỏi: “Con Cụ là ai trong phủ?” Ông trả lời: “Là quan phủ ấy mà!” Chủ nhà bỗng như sợ hãi, nhưng rồi cũng định thần lại được, hỏi tiếp: “Đi thăm quan phủ, sao cụ không đi cáng hay đi xe …?” Ông mình trả lời: “Có đi như thế này mới được ngắm phong cảnh núi sông, biết được phong thổ, nhân tình. Vả lại cũng mới có điều kiện để tìm hiểu con cái mình. Nếu nó khá thì tôi đến thăm. Nếu nó hư thì tôi quay trở về, không thèm nhìn mặt nó nữa”.

Cuốn sách “Cụ Hoàng Nho Lâm” do một thày giáo tên là Nguyễn Nghĩa Nguyên ở Diễn Châu tự ý sưu tầm những tích truyện về Ông mình và viết ra để sung vào tủ sách “Tinh Hoa Trích Diễm”. Ông Nguyên là một nhân vật có thật; không liên quan đến họ Đặng ta thì không hư cấu “huyền thoại” để đề cao Ông mình. Có lẽ dân Diễn Châu muốn dùng những giai thoại về Ông Tế để răn những quan chức bây giờ? Em muốn hỏi anh Việt tại sao trong thời đại phong kiến thối nát lại có những ông quan dạy con cái như Ông mình? Tại sao trong thời đại Hồ Chí Minh với chủ trương “Bài Phong, Phản Đế, Đả Thực” thì đẻ ra một bầy quan chức từ trên xuống dưới đều rặt một phường ăn cắp, tham nhũng, hối lộ? Người xưa nói “gieo gì gặt nấy” là đúng, phải không anh? Lừa đảo, dối trá thì đẻ ra lừa đảo, dối trá!

Nhìn tấm ảnh chụp Nhà thờ Họ của Nguyễn Tấn Dũng nguy nga, đồ sộ, lộng lẫy; rồi nhìn tấm ảnh của cái chòi tồi tàn lợp bằng mấy tấm tôn méo mó, chung quanh là bùn và rác rưởi, một thằng bé gầy còm chừng 5 tuổi đang bón cho đứa em cũng gầy còm chừng hơn một tuổi ăn (không rõ thức ăn là gì?) mà lòng xót xa khôn tả, anh Việt ạ! Đấy không còn là khoảng cách giầu nghèo; mà là khoảng cách giữa thiên đàng và địa ngục. Lãnh đạo sống trên Thiên Đàng và dân đen sống dưới Địa Ngục!

Nhà văn Dương Thu Hương mới ra mắt cuốn sách “Đỉnh Cao Chói Lọi”. Có độc giả bất bình vì cho rằng bà Dương dùng tiểu thuyết để chạy tội cho Hồ Chí Minh bằng cách nói bọn Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khuynh đảo, áp chế ông Hồ; có người khen bà Dương khéo dùng chiến thuật “công đồn, đả viện”, nghĩa là bà biết trong nước không có thông tin đầy đủ nên vẫn còn một số người dân coi ông Hồ là thần tượng. Dùng ngòi bút “đả” ông Hồ là thất sách, là chạm đến thần tượng của họ, nên bà kéo ông Hồ xuống thành một người thường, nghĩa là tả ông Hồ có đủ thất tình, lục dục như tất cả mọi người thì từ đó Đảng CSVN không còn ‘vẽ rắn thêm chân” được nữa? Em chưa có thì giờ đọc cuốn sách của nhà văn Dương Thu Hương, nên không thể nhận định độc già nào đúng, độc giả nào sai. Bỗng em nhận được bài viết của bà Trần thị Hồng Sương có tựa đề “Lịch Sử Bị Chôn Vùi” rất giá trị, vì những sự kiện viết ra đều là sự thật trong quá khứ. Đang ở trong nước, bà Hồng Sương dám viết về ông Nguyễn Tất Thành một cách tách bạch như thế, em cho đó là người phải có lòng yêu nước cao độ mới đủ can đảm chấp nhận hậu quả xấu từ nhà cầm quyền đối với mình. Em thật sự lo ngại cho sự an nguy của bà Hồng Sương, bởi vì qua cái chết đầy bí ẩn của ông cựu Thủ tướng Võ văn Kiệt, người ta tin rằng có bàn tay bí mật của lãnh tụ cộng sản can thiệp. Đảng không thể cho Công An đến nhà lục soát tài liệu hoặc bắt ông Kiệt đi làm việc. Chi bằng tiêm cho mũi thuốc độc. Người ta nghi ngờ ông Kiệt bị Đảng thủ tiêu, bởi vì không lý gì thông tin ngày qua đời của ông Kiệt bị báo Nhà Nước sáng đưa lên, chiều lấy xuống. Rồi ước nguyện của ông Kiệt muốn tro tàn của xác mình được rải xuống khúc sông, nơi vợ con ông bị “địch” oanh kích chết, lại bị Đảng đem chôn xuống đất? Không có điều bất nhân nào mà cộng sản không làm thì sự ngờ vực về cái chết của ông Kiệt có nhiều khả năng … hiện thực!

Em đã đọc hầu hết những bài viết của bà Trần thị Hồng Sương. Qua những tác phẩm của bà, em biết bà là người Miền Nam, tốt nghiệp Dược Khoa dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sau tháng Tư năm 1975, bà không di tản ra ngoại quốc, có lẽ bà nghĩ rằng hòa bình đã tái lập thì nên ở lại Đất Nước để phụng sự xứ sở? Em có người bạn rất thân, phục vụ cùng đơn vị, gốc người Miền Nam cũng có ý tưởng như thế. Bạn em nói: “Nếu mình thua trận thì về quê làm ăn sinh sống, chứ việc gì phải chạy đi đâu?”. Vốn quá thân thiết với nhau, chúng em thường xưng hô “mày, tao” và nghĩ gì thì nói thẳng, chứ không cần rào đón khách sáo. Em nói: “Mày là dân Nam Kỳ, cóc có kinh nghiệm cộng sản bằng tao. Chẳng bao giờ chúng cho mày về quê cày ruộng đâu!”. Bạn em đáp: “Tao phải nói thật với mày điều này, tao có ông già vợ đang là Đại sứ của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam ở Đông Đức, nếu có bề gì thì ổng sẽ can thiệp cho tao”. Em cười: “Mày nói thế càng chứng tỏ mày chẳng hiểu tí gì về cộng sản cả! Nếu là ông bố đẻ cũng không thể can thiệp cho mày; chứ đừng nói ông bố vợ! Chúng nó khác Miền Nam mình lắm! Ở Miền Nam, một sĩ quan như chúng ta có thể ký giấy bảo lãnh cho thân nhân theo Việt Cộng bị bắt. Còn cộng sản mà ký giấy bảo lãnh cho thân nhân là sẽ bị Đảng quy cho cái tội mất quan điểm, lập trường, bị hạ tầng công tác ngay”. Bạn em còn cố cãi: “Cộng sản mà mày biết là cộng sản của thời 53-54 Cải Cách Ruộng Đất; còn cộng sản ngày nay phải khác, chứ mày?”. Liệu không thể thuyết phục được bạn, em nói như buông xuôi: “Ừ, thì mày tính sao đó là tùy mày. Còn tao, tao nhất định thà chết, chứ cương quyết không sống dưới chế độ cộng sản”. Kết quả ông bố vợ gặp anh con rể lần đầu đã ban một lời khuyên rất tử tế: “Con cố gắng phấn đấu học tập tốt, rồi Cách Mạng sẽ khoan hồng”. Quả nhiên “Cách Mạng” khoan hồng thiệt! Nhưng sau 10 năm anh con rể bóc đủ 10 cuốn lịch trong các trại tù ma thiêng nước độc khắp Miền Bắc. Bạn em vốn là một anh chàng đẹp trai, đệ tam đẳng huyền đai Thái Cực đạo, thân hình vạm vỡ đẹp như tượng. Sau 10 năm nếm mùi tù cộng sản, bạn em trở thành một ông già lọm khọm, răng hầu như mất sạch và đầu óc trở nên ngớ ngẩn. Đấy là cái giá phải trả của người sĩ quan trẻ, nặng tình dân tộc, chỉ muốn sống chết với quê hương.

Bà Trần Thị Hồng Sương không nếm mùi tù cộng sản. Bà còn được đại diện trí thức Miền Nam đi “tham quan” Miền Bắc sau tháng Tư, năm 1975. Bà đã đem hết khả năng chuyên môn phục vụ đất nước một cách tận tình, nhưng bà quá ngao ngán trước sự hãnh tiến của phe chiến thắng ngu dốt mà lại ở vị thế lãnh đạo cơ quan. Tuy là một nhà khoa học thực nghiệm, nhưng qua những tác phẩm của bà người đọc nhận thấy bà đọc rất nhiều sách thuộc khoa xã hội, nhân văn. Nhận xét của bà về nước Mỹ, người Mỹ chứng tỏ bà có kiến thức rộng, không bị nhồi sọ bởi luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của lối tuyên truyền cộng sản. Văn phong của bà biểu lộ một người trí thức có nhân cách khiến cho lớp trẻ phải suy nghiệm để định đoạt tương lại của chính họ. Bà tỏ ra âu lo cho tương lai Đất Nước khi thấy những trẻ em vô tư đùa giỡn trên vũng ruộng đồng lầy nước đọng. Em sẽ kèm theo thư này bài viết “Lịch Sử Đã Bị Chôn Vùi” để anh Việt nhận thấy em anh nói về bà Hồng Sương là chính xác.

Anh Việt rất qúy mến của em,

Em khởi sự viết thư này cho anh vào ngày 20 tháng Giêng năm 2009, ngày đánh dấu một biến cố trọng đại trong lịch sử Hoa Kỳ. Hôm nay – ngày 30 tháng Giêng năm 2009 – cũng là ngày trọng đại trong lịch sử Đảng Cộng hòa của Mỹ: Ông Michael Steele – một người da đen, cựu Phó Thống Đốc tiểu bảng Maryland – được Đảng Cộng Hòa bầu làm Chủ tịch, sau khi Tổng thống Bush mãn nhiệm kỳ. Ở Hoa Kỳ, khi ông Tổng thống thuộc đảng nào thì ông ta đương nhiên là Chủ tịch Đảng đó. Ví dụ ông Obama hiện nay vừa là Tổng thống nước Mỹ, vừa là Chủ tịch Đảng Dân chủ, nhưng khi ông Obama mãn nhiệm thì đảng phải bầu vị Chủ tịch khác. Đó là cách thức sinh hoạt chính trị của Hoa Kỳ để không có một ông nào làm Chủ tịch Đảng mãn đời. Đảng Cộng hòa có xu hướngbảo thủ; đảng Dân chủ có xu hường cấp tiến hoặc phóng túng (được dịch từ chữ liberal). Ở đây, em cũng phải giải thích từ “bảo thủ” của Mỹ khác với cách hiểu từ “bảo thủ” của đảng cộng sản Việt Nam.

Bảo thủ của Mỹ là duy trì những giá trị cũ như chống lại việc phá thai; chống lại hôn nhân có giá thú giữa những người đồng tính luyến ái; chống việc dùng phôi thai để thí nghiệm y khoa; chống hợp thức hóa hút thuốc cần sa v… v… Ngoài ra chính sách “welfare” (trợ cấp xã hội) có mục đích giúp đỡ những người thật sự cần thiết (needy) để người đó có thể dần dần tự đứng trên hai chân của mình. “Bảo thủ” của Việt Nam Cộng sản là ôm cứng lấy cái chủ nghĩa đã lỗi thời, nhân loại đã ném vào thùng rác, để mưu cầu tư lợi. Do đó, cộng sản không dám bỏ Điều 4 Hiến pháp vì như thế là tự sát. Đảng Dân chủ Mỹ không những ủng hộ những gì đảng Cộng hòa chống mà còn có một chính sách trợ cấp xã hội “phóng túng” hơn để lấy phiếu của kẻ lười biếng. Người da đen đa số ủng hộ đảng Dân chủ cũng vì cái chủ trương trợ cấp xã hội phóng túng ấy. Đảng Cộng hòa bị kết tội “kỳ thị dân tộc thiểu số” do bọn truyền thông có xu hướng “phóng túng” rêu rao, mặc dầu đảng Cộng hòa đã cử Đại tướng Colin Powell (da đen) làm Tổng Tham mưu trưởng Liên quân, rồi Ngoại trưởng, bà Condoleezza Rice (một phụ nữ da đen) làm Ngoại trưởng. Từ chỗ bị đối xử khinh miệt bất công đến chỗ được ngồi vào vị trí định đoạt số phận quốc gia, người da đen đã đạt được thắng lợi to lớn. Ấy là vì người da trắng đã nhìn ra sự kỳ thị chủng tộc của mình là sai lầm.

Đảng Cộng sản Việt Nam không những ngược đãi, phân biệt đối xử với thành phần bị xem là Ngụy quân, Ngụy quyền; họ còn đối xử tàn tệ đối với cả những người từng cùng nằm gai nếm mật để dựng lên cỗ máy độc tài – chuyên chính. Chế độ Cộng hòa ở Miền Nam không phải là chế độ hoàn hảo (có lẽ trên thế giới cũng chưa có chế độ nào hoàn hảo), nhưng tối thiểu chế độ Cộng hòa Miền Nam có nhân tính; còn chế độ cộng sản ở Miền Bắc mang đặc tính hung dữ của loài hùm beo, gấu và tính qủy quyệt của loài chồn yêu quái, nên bất khả sửa đổi, do đó vô số đóng góp ý kiến xây dựng của những bậc thầy đều bị bọn lãnh đạo ném vào thùng rác.

Tướng độc nhãn Moshe Dayan chẳng phải là đấng tiên tri. Câu nói: “Miền Nam hãy thua cộng sản trước đi đã, rồi sẽ thắng” được dựa trên những phân tích hữu lý của nhà chiến lược. Tác phẩm Khu Rừng Lau của nhà văn Doãn Quốc Sĩ, Trăm Hoa Đua Nở của Mặc Đình Hoàng văn Chí, phim Chúng Tôi Muốn Sống của đạo diễn Vĩnh Noãn là những tài liệu quý giá mô tả bộ mặt thật của cộng sản, nhưng bị xem như tài liệu tuyên truyền của chế độ Ngô Đình Diệm. Miền Nam tố giác ông Hồ Chí Minh là một Lê Chiêu Thống “rước voi về dầy mồ” thì chẳng ai tin. Tệ nhất là những nhà lãnh đạo chính trị, quân sự, tôn giáo cứ đấu đá lẫn nhau đã tạo nên một hình ảnh xấu đối với thế giới mà quên đi kẻ thù đang kề dao vào cổ mình. Hoa Kỳ hay bất cứ một quốc gia nào dù hào hiệp đến mấy cũng không thể nào ủng hộ mãi một dân tộc quyết liệt xâu xé lẫn nhau. Phải để cho cộng sản thống trị thì mới mong mở mắt họ được. Quả nhiên Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Phật Giáo Tranh Đấu, Phong Trào Đòi Hòa Bình, Trí Thức Yêu Nước đều bị vỡ mặt trước những hành động lật lọng thô bạo, trắng trợn của cộng sản sau khi toàn bộ Miền Nam. Bọn “Phù” cộng sản ngày xưa thì nay quay lại chửi cộng sản không tiếc lời. Đó là Miền Nam đang thắng.

Miền Nam đang thắng không có nghĩa những ông bà chống Cộng ở hải ngoại về tái lập nền Cộng Hòa. Miền Nam đang thắng không phải là đoạt được thành, chiếm được đất, mà là lòng người đã ngộ. Ngộ vì chiếc mặt nạ giả trá của cộng sản đã bị lột do chính những người Miền Nam từng chạy theo cộng sản, lại thêm đã có rất nhiều chiến sĩ ở Miền Bắc đã hết lòng tận tụy hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản đang mạnh mẽ lên án chủ nghĩa ấy; đã có những quân nhân cao cấp của chế độ cộng sản công khai nhìn nhận và tán dương cuộc chống trả oanh liệt của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ Hoàng Sa, Trường Sa. Sự đàn áp của Công An đối với các cuộc biểu tình của nhân dân chống Trung Cộng càng tàn bạo bao nhiêu thì sự tố giác ông Hồ là một Lê Chiêu Thống càng đúng bấy nhiêu. Cựu Đại tá Quân Đội Nhân Dân Phạm Quế Dương lên án Đảng CSVN là một đảng cướp, có nghĩa Miền Nam chống trả lại cuộc xâm lăng của đảng cướp là chính đáng, là có chính nghĩa.

Bọn quan chức cộng sản hình như cũng ý thức rằng ngày tàn của chúng chỉ còn là vấn đề thời gian. Vì vậy chúng đang tìm cách tẩu tán tài sản ra nước ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ. Chúng bỏ tiền ra mua những dinh thự trong khu vực nhà giàu, các cơ sở thương mại sang trọng mà không cần mặc cả giá. Chúng sai bọn nha trảo, đầu gấu đi bắt người bất đồng chính kiến bằng lệnh miệng, không dám ký lệnh trên giấy tờ vì sợ lưu lại vết tích.

Đó là những chỉ dấu hùng hồn nhất cho thấy chúng ngửi được nguy cơ đang tiến đến gần, nên hối hả chuẩn bị “hậu sự” ở nước ngoài. Máu xương dân Việt đã đổ cho một cuộc thống nhất tàn bạo để làm giàu cho bọn Phong Kiến Đỏ. Tài sản quốc gia Việt Nam đang băng qua Thái Bình dương trôi vào ngân hàng Mỹ để khi hữu sự bọn lãnh đạo trốn sang tiếp tục hưởng cuộc đời vương giả. Nguyễn Tấn Dũng gả con gái cho Việt kiều Mỹ để con mình có tấm vé “công dân Mỹ” là một toan tính cho tương lai.

Hơn 33 năm ở Hoa Kỳ, em chỉ bị đi trình diện tòa án hai lần. Một lần lái xe quá tốc độ ở khu trường học, một lần vượt đèn đỏ. Nạp tiền phạt xong, ra về. Không bao giờ bị kêu đi “làm việc” vì chỉ trích chính sách của đảng đang cầm quyền. Muốn phát hành tờ báo, cuốn sách thì cứ việc in ấn, phổ biến; chẳng phải nạp đơn xin phép ai cả. Cộng sản, ngược lại, dùng mọi thủ đoạn đàn áp người dân để bịt miệng. Chính sách “bao tử trị” nhằm triệt hạ phẩm giá con người (đói thì đầu gối phải bò) là một chủ trương tàn ác, bất nhân vô cùng. Sự lưu manh, dối trá, lừa đảo của nhà cầm quyền đã biến toàn xã hội phải lưu manh, dối trá đáp lại vì lý do sinh tồn. Không cho phép ai được quyền NÓI THẬT, thì khó mà tìm được người tử tế. Vì vậy mỗi khi thấy xuất hiện một người can đảm lên tiếng phản kháng chống lại bọn cường hào ác bá, bọn quan ôn cộng sản là em rất mừng. Chỉ ước mong sao toàn dân Việt Nam thấy được bọn lãnh đạo cộng sản kéo dài ngày nào là tương lai dân tộc khốn đốn ngày đó. Mong rằng nhân dân đừng cam chịu số phận tôi đòi nữa. “Giả dại qua ải” không thể hy vọng sẽ nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm, bởi vì “cái ải cộng sản” sẽ dài vô tận, nếu đồng bào không ra tay hủy hoại nó.

Ông Hồ Chí Minh là con người bệnh hoạn, cùng một lúc mang hai tâm bệnh: Mặc cảm
tự tôn và mặc cảm tự ti. Chưa già mà để râu dài, xưng Bác với người lớn tuổi hơn mình, lén lút “gối chăn” với tình nhân đến mang thai mà không chịu nhìn nhận lại sai bộ hạ thủ tiêu, có con thì giao cho người khác nuôi để làm “Cha Già Dân Tộc”. Đó là bệnh tự tôn. Những nhà cách mạng như cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Qúy Cáp v… v…là trí thức khoa bảng. Ông Hồ mang mặc cảm tự ti vì không đỗ đạt nên phải giả dạng làm Trần Dân Tiên viết sách để tự ca tụng cuộc đời “Kách Mệnh” của mình. Ông Hồ dùng thủ đoạn độc ác, lừa bịp, dối trá gieo vô số tang tóc cho dân tộc Việt. Những người cộng sản cầm quyền ở nước ta hiện nay là những phiên bản của Hồ với đầy đủ đặc tính của nguyên bản.

Vì vậy ngày nào ông Hồ còn nằm ờ Quảng trường Ba Đình, tượng ông còn đặt nơi tôn nghiêm, đạo đức, tư tưởng ông được đề cao, cả nước bị bắt buộc noi gương ông Hồ, thì ngày đó nhân dân Việt Nam chưa thể có TỰ DO DÂN CHỦ. Bao giờ xác ông Hồ được đem thiêu, tên thành phố Hồ Chí Minh được trả lại cho Sài Gòn thì hồn ma bóng quế của ông Hồ mới hết ám vào con đường dân chủ hóa Đất Nước Việt Nam.

Người Mỹ nhờ có ông mục sư da đen – Luther King – gào to “I have a dream” nên ngày nay đã có một ông da đen làm Tổng thống, một ông làm Chủ tịch đảng Cộng hòa. Chẳng lẽ Đất Nước Việt Nam ta không có được một người thét lớn “Khát Vọng Dân tộc Việt Nam muôn năm” để nền Dân Chủ Tự Do trở thành hiện thực? Đã đến lúc mọingười Việt phải đoàn kết lại để chấm dứt cái chính quyền lấy sự dối trá, lừa đảo, khủng bố để cai trị. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa! Chủng người Việt sẽ bị diệt, vì bản sắc đặc thù của Tộc Việt sẽ biến mất.

Em đã liên lạc điện thoại với nhà giáo Nguyễn Thượng Long được rồi. Thư sau em sẽ tường trình với anh cuộc trao đổi giữa nhà giáo với em. Chúc anh dồi dào sức khỏe. Gần 90 tuổi mà anh vẫn còn phóng xe mô-tô thì em phục anh Việt lắm.
Kính thư, viết xong ngày 30 tháng Giêng năm 2009.

Bằng Phong Đặng văn Âu, email address: hoalong1@att.net .

Tái bút: Cuối cùng, em kính nhờ anh Việt giúp em một chuyện. Hai năm trước đây em có gọi điện thoại cho cháu Chương con anh Ấn ở Hà Nội để yêu cầu cháu liên lạc với giáo sư Trần văn Hà nhờ nhà ngoại cảm Bích Hằng tìm hài cốt hai ông anh của em là anh Bút, anh Nghiên bị cộng sản thủ tiêu năm 1945. Hai anh bị giết lúc còn trẻ, không vợ không con không người hương khói nên cần mang di cốt hai anh về chôn tại nghĩa trang dòng họ Đặng để hai anh được hưởng các ngày giỗ chạp tổ tiên. Cháu Chương cho em hay rằng cháu có quen biết với giáo sư Trần văn Hà khi hai người cùng làm việc ở Phi Châu. Nghe cháu Chương nói thế, em càng hy vọng ước nguyện của em được toại, em hứa sẽ bồi hoàn mọi phí tổn và hậu tạ cô Bích Hằng xứng đáng, nhưng từ bấy đến giờ em không nhận được tin tức gì của cháu Chương nữa. Vậy nay em nhờ anh Việt để tâm giúp em chuyện này mà đem lại kết quả mong muốn thì em cám ơn anh Việt rất nhiều.

No comments:

Blog Archive