Monday, May 2, 2022

Sau lằn vạch trắng

Hồi ức Tháng Tư Đen
Qua 47 năm kể từ khi CS cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam, biết bao nhiêu người đã lần lượt vào tù, đôi khi không chỉ một lần, mà nhiều lần vì mang tội phản động, bị nghi ngờ làm gián điệp, vì tôn giáo chống cộng, vì văn hóa đồi trụy, hay đôi khi chỉ vì ca hát nhạc vàng, có tiền có của, hay vượt biên vượt biển…

Mục đích bài viết này không phải để nhắc đến những hình ảnh đau xót, những đọa đày trong tù tội, hay những câu chuyện bi thảm, những chà đạp nhân phẩm mà những tù cải tạo phải gánh chịu. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người tù cần nương dựa vào tình yêu, vào tình đồng đội, tình người… để sống sót. Phải trông cậy vào niềm tin, trong cầu nguyện, và đừng bao giờ đánh mất niềm tin trong cuộc sống. Chỉ niềm tin mới giúp nuôi được hy vọng nhìn thấy ánh sáng cuối ở đường.

PHẦN I – TÙ CẢI TẠO
Ngay từ những ngày đầu tiên trong trại tù cải tạo L19T9 tại Xuân Lộc, tôi được sự may mắn nằm giữa 2 bạn tù. Một người từng quen thân vì anh là đàn anh của tôi tại trường Y Khoa Huế, chẳng may anh bị động viên sau 1968. Anh Hồ Xuân Tịnh từng sống sót, không một vết thương, khi anh là một Trung Úy Trợ Y trong chiến tích lẫy lừng và tan hàng anh dũng của Tiểu Đoàn 95 Biệt Động Quân tại trại biên phòng Ben Hét vào mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Người bạn tù nằm bên trái của tôi là Trung Úy Không Quân Hoàng Văn Tân. Là người Bắc di cư, công giáo, có đi học ở Mỹ về tiếp liệu, anh rất mộ đạo. Anh là một con người hiền lành, chất phát, gia đình anh có tiệm bán thuốc Lào 3 số 8 tại chợ Ông Tạ. Ba chúng tôi trở thành thân thích, che chở cho nhau, tâm sự với nhau, chia sẻ với nhau những nỗi buồn xa vợ con – đặc biệt các bạn ấy rất thông cảm nghe tôi thường xuyên thảm thiết kêu tên vợ mình trước khi đi ngủ - và rủ đọc kinh với nhau. Nhất là Tân, gọi tôi là huynh và xưng mình là đệ, nhắc nhở nhau đọc kinh cầu nguyện mà tôi hằng ghi nhớ câu Tân nói khẽ “Huynh, đọc kinh với đệ” mỗi sáng và tối. Sự gắn bó đùm bọc nhau đã giúp tôi giữ vững lòng tin trong cuộc sống tù đày hỗn tạp, nhất là mang cho tôi sự lạc quan khiến tôi không còn cảm sợ sự lạc lõng trong cảnh chim lồng cá chậu. Đọc kinh mỗi ngày trở thành thói quen cho tôi trong suốt thời gian tù tội và về sau, khi chuyển trại hay khi về lại nhà, khi sống trong nước hay hải ngoại.

Đây cũng là thời gian có nhiều thử thách cho tất cả khi cả trăm người không từng quen biết từ trước phải chung sống với nhau trong một không gian xa lạ, vừa nhỏ hẹp vừa bị kềm kẹp, vừa đói khát, vừa phải nghe các chính trị viên CS lên lớp. Để thoát khỏi những áp lực trên, những bạn tù thi nhau phát huy tài nghệ riêng, đua nhau làm những món đồ thủ công nghệ mang tính cách thực tế. Bạn Tân giúp tôi làm nhiều thứ, trong đó có ống hút thuốc lào, cái ba-lô bằng vải dày che trần của các xe quân đội hư hỏng, túi xách tay lớn cùng cái mũ rộng vành che nắng khi lao động, một cây đờn Tây Ban Cầm với đầy đủ các sợi dây quấn từ dây điện điện thoại quân đội, vài chiếc vòng đeo cổ tay, trâm cài tóc và một chiếc lược khắc tên vợ, làm bằng nhôm từ các xe M113 phế bỏ mà tôi tặng cho cho nàng trong lần thăm nuôi đầu tiên. Biết bao bạn tù còn làm nhiều món đồ chơi như các bộ cờ tướng, bộ Domino, bộ mạt chược… và các vật dụng trong nhà rất tinh xảo như bộ tách trà, khay thức ăn, muỗng nĩa mà các quản giáo phải năn nỉ nhờ làm mang về cho thân nhân ngoài Bắc. Thật là quý hóa khi chiếc lược tôi tặng cho vợ mình được ông bà nhạc của tôi chính tay mang qua làm quà cho vợ chồng chúng tôi khi gia đình ông bà và 3 em vợ còn lại được đoàn tụ năm 1990 với chúng tôi. Để bây giờ, chiếc lược ấy được nằm trang trọng trong một chiếc hộp để ngay trên đầu giường của vợ chồng. Thỉnh thoảng tôi mở hộp, lấy chiếc lược ra chải tóc cho vợ, vừa kể lại vài câu chuyện bỗng nhớ về cảnh tù đày, những ngày xa nhau vừa nhớ em, vì tù tội.
Nhờ sống trong trại tù, tôi học hỏi nhiều cái mới lạ. Ngoài lao động chung, mỗi người tù có hai hai luống rau lang trồng cho mình. Trong khi những bạn khác bứt lá, luộc ăn thêm cho đỡ đói, tôi cứ miệt mài tưới nước 2 luống của mình, không dám hái lá ăn, thích thú nhìn lá xanh tươi mơn mởn. Khi thâu hoạch, những luống của người khác cho những củ khoai lang to lớn, trông rất ngon lành. Hai luống của tôi hầu như không có củ nào. Bài học “tốt lá xấu củ” là đây! Anh em bạn tù rủ nhau trồng cây đu đủ, dạy khôn cho nhau cách phân loại hột cái hay đực trong trái đu đủ chín để gieo. Người khác chỉ cách dùng dao xén một miếng nhỏ ngay trên thân cây mẹ ở chỗ có mắt, rồi trồng xuống. Đến ngày chúng tôi rời trại, cây trồng với hột chỉ cao vài gang tay, nhưng bên trồng với mẫu cắt từ thân mẹ cao hơn nhiều. Thêm một cái hay để học hỏi.

Đói là một trong những ám ảnh người tù cải tạo chịu đựng. Đói cùng với nhồi sọ chính trị và lao động là cách thức CS sử dụng triệt để trong các trại tù tập trung. Một anh bạn nằm đối diện với tôi, ngay cửa ra vào của phòng, có biệt tài bắt chuột. Bằng một sợi dây nhỏ gắn từ cái lồng bẫy tự làm nối với ngón chân cái của anh, khi chuột vào cắn mồi trong lồng, anh giựt sập lồng với ngón chân của mình. Cứ thế mà anh có thịt ăn liên miên. Có lần tôi nhìn anh thán phục, anh lại nghĩ tôi muốn xin ăn, anh ngần ngừ rồi đưa tôi nguyên một con chuột nhỏ bằng hai ngón tay cái, đã lột da, móc ruột và luộc chín. Tôi từ từ bỏ nó vào miệng, nhưng nhổ phẹt ra lại ngay. Ối trời! Cái mùi vô cùng kinh hoàng không thể nào chịu nổi! May mà chưa mửa.

Những toán 5 anh nuôi thay phiên nhau mỗi tuần nấu cơm, nấu cháo sáng, nấu canh… cho đội. Vì cho đây là chuyện khó làm, nên các tổ trưởng đồng ý cho toán anh nuôi được giữ ăn phần cơm cháy. Nhóm nhà bếp có kinh nghiệm dần và nấu cơm cháy càng lúc càng dày, gây nên chuyện “trao đổi” cơm cháy với thuốc lào hay với các sản phẩm thủ công nghệ của các bạn tù khác. Thế là các tổ trưởng họp, đảo ngược quyết định trước: cơm cháy nay cũng phải chia đồng đều cho các tổ. Thế là xẩy ra chuyện nhiều lần chúng tôi phải bị ăn cơm khê – cho bỏ ghét - Ngoài ra, chuyện chia phần ăn lắm khi cũng gây ra cãi vã gay cấn. Đúng với câu “miếng ăn là miếng tồi tàn – Mất đi một miếng lộn gan lên đầu.” Với tôi, trong một lần phụ nấu cháo buổi sáng, sau khi hít một bi thuốc lào lúc bụng còn đói, tôi xây xẩm, xém chúi đầu vào chảo đang sôi, may có bạn bên cạnh chụp lại kịp. Hú hồn!



Cũng tại trại tù Long Khánh này, sau lần gặt hái thành quả lao động đầu tiên do tù cải tạo làm ra, phần lớn các sản phẩm như bắp, khoai lang, khoai mì bị giao nộp cho bên trên. Để sau đó, trước thời gian Miền Nam bị đổi tiền, có hiện tượng một bà ốm nhom, dáng người khổ cực, mời chào đoàn tù trên đường lao động mua khoai lang, khoai mì, bắp luộc. Nhờ có một lần bắt gặp ông thượng tá của trung đoàn lính đang cai quản trại tù đến to nhỏ với bà, tỏ ý ngăn cản việc buôn bán, bà ta đứng dậy, ngang nhiên lớn tiếng chửi vào mặt ông với một giọng Bắc the thé, rất nhà quê, khiến ông ta bẽ mặt bỏ đi, bấy giờ chúng tôi mới biết bà ấy là vợ ông.

Sau lần chuyển trại ban đêm, từ Xuân Lộc đến Trảng Táo, tôi lại may mắn sống chung trong tổ gồm 5 bạn tù mới, là dược sĩ Lâm Văn Trác, hai nha sĩ cùng một lớp là Hà Tô và Lộc, một nhà giáo là anh Ba Trí, và tôi. Bốn người kia thuộc Bộ Binh, tôi lại của Nhảy Dù. Nhìn quanh cả đội tôi là đứa “ác ôn” nhất. Nhưng không vì thế mà các bạn ấy “né” hay lạnh nhạt với tôi. Ngược lại, theo thời gian, chúng tôi có với nhau một liên hệ rất mật thiết, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, người này sẵn sàng choàng qua làm giùm công việc cho người khác, nấu nướng cho nhau, chia nhau chút thực phẩm hiếm quý do gia đình mang đến. Tình đồng đội, nghĩa bạn hữu trong cảnh tù đày cho chúng tôi thêm sức sống và nghị lực nín thở qua sông chờ ngày đoàn tụ gia đình.

Một nhóm tiên phong 50 người tù chuyển từ Xuân Lộc đến Trảng Táo đầu tiên, để chuẩn bị cho đại quân tù đến sau từ những trại tù khác. Nhóm được giao phó nhiệm vụ chặt cây, cắt tranh dựng nhiều nhà ngủ lớn, nhà họp với sức chứa trên cả trăm người, cùng lúc phải đào giếng tìm nguồn nước uống và tắm cho toàn trại. Có lẽ do thân hình thấp nhỏ và có “ngón”, tôi được anh em chỉ định vào toán 4 bạn chuyên đào giếng. Cái khó làm sao tìm đúng chỗ có nước để đào giếng?? Tôi quyết định đào những nơi có nhiều cây cỏ xanh tốt, nghĩ bên dưới có mạch nước ngầm. Thông thường ít nhất phải đào sâu trên 5 thước mới bắt đầu có nước. Nhưng đất ở đây là đất núi. Ui chao ơi là khó!! Phải đẽo, phải đục, phải đập. Phải xắn, phải nạo, phải bươi, phải cuốc, phải xúc, đồng thời phải giữ miệng giếng phải tròn, thành giếng phải thẳng và có chỗ cho chân bám vào khi đào sâu dần. Đất đá đào chừng nào phải cho vào thùng có người ở trên kéo lên. Có khi đào được ¾ đường bỗng gặp phải 1 tảng đá to tổ bố nằm ngang chặng đường. Thế đành phải bỏ dở công trình và phải vùi lấp miệng giếng cho an toàn, tránh chuyện bạn tù rớt vào giếng trong đêm tối. Càng đào xuống sâu càng nguy hiểm vì đất đá có thể rớt trên đầu mình hay bị trụt đất, nên tôi thường phải chụp lên đầu một cái nồi do bạn tù làm. Có lần sợ đến đứng tim khi đang còn nạo, vét đáy giếng cho bằng phẳng với mức nước ngang cổ chân, thình lình một con rắn từ trên bỗng rớt xuống, khiến tôi hoảng hồn vừa la vừa leo nhanh lên miệng giếng. Số giếng do nhóm chúng tôi ra công đào có lẽ lên đến cả 10 cái. Cái thích của đào giếng là làm việc một mình khi đào xuống sâu, cảm nhận không khí ẩm và mát lạnh, và tiếng nói của mình hay tiếng hát nghêu ngao của mình vang dội nghe có vẻ huyền bí.

Sau những tháng lao động dồn dập, vào một ngày cuối tuần của hè năm 1976, tôi được gọi lên gặp thân nhân. Ngạc nhiên hết sức vì đó là anh thứ ba của tôi. Anh Vĩnh Anh du học Canada năm 1962 qua chương trình Plan Colombo, về sau hoạt động và hăng say sinh hoạt trong tổ chức Trí Thức Việt Kiều Yêu Nước tại Montreal, ra mặt chống đối chính phủ VNCH, đất nước đã giúp anh đi du học và thành đạt. Đây là chuyến đầu tiên từ ngày du học, anh trở về thăm gia đình, và được cấp giấy phép đến thăm tôi ở trại tù.

Cùng đi với anh có Măng tôi và vợ tôi. Câu chuyện không có gì mặn nồng cho lắm, có thể vì tôi chỉ muốn chú trọng đến vợ tôi nhiều hơn; tôi hỏi anh có giữ ý định về phục vụ đất nước như anh từng mong muốn. Anh thẳng thắn trả lời “đang còn trong nước, anh rất khó có quyết định khách quan để trả lời. Anh sẽ cho biết sau khi về lại Canada, nếu anh không xin vào quốc tịch Canada, tức phải hiểu rõ anh sẽ về nước phục vụ”. Thế nhưng, chưa đến nửa năm sau, trong một thư gởi cho tôi, Măng tôi cho biết anh ấy đã quyết định ở lại Canada sau khi nhập tịch Canada. Phải chăng cảnh tù đày của thằng em, phải chăng sư so sánh hình ảnh của một Miền Nam VN trù phú sung túc và hạnh phúc trước khi anh du học với sự thật phũ phàng hiện tại không thể che dấu cái nghèo đói, cái trắng tay, nỗi ám ảnh sợ hãi mà anh nay chứng kiến trong một đất nước được thống trị bằng bạo lực, khi anh ở Sài Gòn, ra Đà Nẵng thăm anh mình, về Huế thăm bà con bên nội và mộ phần Ba tôi và của đại gia đình, đã ảnh hưởng lên quyết định của anh tôi chăng?!

Khách thăm của tôi được các bạn tù cùng đội 5 người chào đón bằng một bữa cơm trưa sang trọng và ngon nhất từ trước đến nay của lũ tù chúng tôi: cơm độn với bắp, rau lang luộc chấm nước muối, thịt kho mặn có lẽ từ gia đình một bạn nào đó, canh bí đỏ và tráng miệng với chuối. Thật quý hóa! Thật tình cảm! Giờ nhớ lại mà lòng tôi vẫn chứa chan cảm xúc. Thế mới biết tình bạn trong cảnh khổ cực với nhau đôi khi đáng trân quý hơn tình anh em trong gia đình.

Dù mỗi người mỗi hoàn cảnh, nhưng cùng một nỗi đau chung, không chỉ sống với nhau trong cảnh tù đày chúng tôi mới biết thân thiết, đùm bọc nhau mà chúng tôi còn nhận bao tình thương của tha nhân những khi lao động bên ngoài. Những ánh mắt xót xa đầy thiện cảm và chia sẻ của người dân, những gói bánh cốm, bánh mì, bánh bông lan, bao mì gói, kẹo đậu phụng, kẹo chuối… của bá tánh trên xe lửa quăng xuống cho tù cải tạo. Có một lần, tổ chúng tôi nhận được cả chục cây cà rem khi đang còn ì ạch gánh tranh cạnh con đường sắt. Phải nói là thần tiên khi mút được cây cà rem mát lạnh giữa nắng trưa trong lúc người ướt thấm mồ hôi. Tình thương ấy giúp chúng tôi cảm thấy không bị bỏ rơi, không bị mặc cảm trong sự chà đạp cùng cực của kẻ đóng vai chiến thắng. Tình thương ấy đã vực chúng tôi dậy, giúp chúng tôi có niềm tin, trở thành mạnh mẽ đủ để vượt qua những khổ đau thể xác, những kiệt quệ tinh thần. Chúng tôi có thể trầm cảm, trở nên khùng điên…, nhưng không bao giờ chấp nhận sự khuất phục.

Đi tập trung với hành trang đủ cho 7 ngày, để rồi không biết đi về đâu và không biết ngày về, ngoài chuyện thương nhớ gia đình, lo âu cho vợ con không biết xoay sở trong cuộc sống mới, nỗi sợ hãi tận cùng của mọi người cùng hoàn cảnh là bị lãng quên, bỏ rơi, phụ bạc theo thời gian. Khi niềm hy vọng đoàn tụ quá mơ hồ, những bạn tù được thân nhân lén tìm thăm, tiếp tế, là những kẻ hạnh phúc nhất đời, vì biết mình còn được yêu thương. Trở thành vợ chồng chỉ 3 ngày sau khi mất nước, em đã nhiều lần tìm cách đến thăm tôi khi tôi đi tù. Lần đầu tiên sau Tết 1976 khi tôi còn trong trại L19T9, em đã nhiều lần theo chân vợ của Hoàng Văn Tân đến Xuân Lộc, đứng cầu may chờ tìm chồng, thay vì trong đám ba quân, thì nay trong đám tù trên đường đến lao động tại khu rừng cao su. Và thật diệu kỳ trong một buổi sáng có mưa nhẹ, tôi nhìn thấy em co ro đứng bên kia đường. Thế là em cùng với chị Tân bám theo sau đoàn tù một khoảng khá xa. Khi anh em tù được phân phối vào rừng đốn cây làm củi, hai người vợ tù cũng nhanh nhẹn và kín đáo tìm đến nơi hai người chồng đang lao động. Mỗi cặp trải poncho giữa đám cỏ cao khuất lấp tầm nhìn, chỗ này cách chỗ kia chừng hai, ba chục thước. Thật là tuyệt diệu khi em và tôi có nhau trong khung cảnh lãng mạn tình tứ này, dưới tàng cây cao su với những giọt mưa rơi nhẹ xuống trên thân thể chúng mình, như một hòa hợp tình tự cùng với nước mắt của hạnh phúc lẫn chua xót. Trong niềm hoan lạc, tôi nhìn ngắm em cài áo làm duyên. Những giây phút thần tiên không một ngỡ ngàng này cho tôi ý chí và sức sống, tiếp tục nở hoa trong suốt tháng năm mòn mỏi đợi chờ nhau. Em đã cho tôi tình yêu và hy vọng.

Tại Trảng Táo, có lần nàng tìm cách nhắn lén để hẹn tôi, nhưng liên lạc không đến đúng người, đúng lúc. Như chuyện thiên định, tôi tình cờ đứng chơi trên sân ga Trảng Táo, dù chỉ trong một khoảnh khắc khi chuyến xe lửa chạy ngang, dưới ánh sáng vàng rực của cuối ngày, chúng tôi nhìn thấy nhau trong tích tắc, kẻ ở trên tàu, người dưới đất, khoảng cách không xa nhưng tưởng như vạn dặm. Tôi la lớn, gọi tên em, và xoay người vội vã chạy theo con tàu. Em chồm hẳn thân hình ra phía bên ngoài, tay nắm chặt song sắt, đôi mắt mở lớn mừng rỡ như muốn thu nhận tất cả hình ảnh của chồng. Tôi đau đớn nhìn thấy em gầy gò. Đôi mắt của em, ôi con mắt đã từng nhốt hồn tôi vào trong đó, vẫn còn nét tinh anh trong sáng và đoan trang của ngày nào. Tôi bỗng cảm thấy thân hình mình nhẹ hẫng như được đôi tay thiên thần nâng đẩy, tim tôi như ngừng đập trong đê mê, bước chân tôi như đang chạy trên mây, tay tôi rộng với về nàng như thể muốn níu ôm lấy em vào lòng. Tất cả xung quanh tôi như chậm lại, mơ hồ. Cả hai chúng tôi tròn mắt nhìn nhau trong vô tận. Chỉ có em và tôi hiện hữu trong khoảnh khắc thần tiên này. Qua ánh nhìn, em gởi đến tôi thông điệp, “Anh an tâm. Mọi việc ở nhà bình yên. Em yêu anh. Anh phải sống. Em sẽ chờ đợi với tất cả lòng thủy chung.”

Có lẽ tôi đã chạy theo con tàu chừng mấy mươi bước, tim đập như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, rồi tôi thấy mình dừng lại. Đứng yên tại chỗ để nhìn nàng được rõ hơn khi con tàu từ từ đưa nàng xa dần tôi. Dù con mắt có đuôi, dù cái nhìn kéo dài đầy nuối tiếc, rồi cũng đến lúc mờ khuất bóng nhau. Tôi muốn em biết tôi yêu em đến chừng nào, tôi ước mong có cánh để bay đến bên em, ôm chặt vào lòng, truyền cho nhau sức sống. Như hiểu tôi sắp oà khóc vì quá xúc động, nàng thoáng nhẹ lắc đầu, ánh nhìn thầm nhắc nhở dặn dò đừng bao giờ bày tỏ sự yếu đuối trước kẻ hành hạ mình. Em đã cho tôi nguồn hy vọng. Sự tình cờ may mắn thấy mặt nhau hôm nay nói lên được định mệnh ràng buộc giữa chúng tôi, làm chúng tôi càng thêm gắn bó. Chỉ một lần nhìn thấy nhau trong đớn đau là cả một ghi nhận nghìn năm không phai.

Sau cuộc gặp gỡ định mệnh ấy, tôi tìm đến làm quen với ông Ba, người có cảm tình với tù cải tạo và chủ một căn nhà tranh cách trại tù tôi khoảng 5 cây số băng rừng. Một dịp thuận tiện, tôi nhờ ông mang lá thư viết tay của tôi đến giao cho vợ tôi tại Sài Gòn, và cố gắng sắp xếp mang vợ tôi về nhà ông cho chúng tôi gặp nhau. Trong thư tôi có ghi rõ vợ tôi sẽ bồi đáp 50 đồng cho bác Ba. Đúng một tuần sau, ông Ba kín đáo nhắn cho tôi rằng vợ tôi hiện có mặt tại nhà ông. Nhận tin, tôi nói nhỏ cho các bạn trong tổ biết để bao che cho tôi trong phần lao động và tôi phóng mình chạy nhanh đến gặp vợ mình. Quả nhiên nàng đang chờ tôi trong túp lều tranh. Chúng tôi sung sướng gặp mặt nhau, ôm nhau trong vòng tay. Bên nhau nàng và tôi xây mộng bình thường, chỉ mong sẽ có ngày chúng tôi được sống bên nhau trong căn nhà tranh đơn sơ như thế!! Tôi chạnh lòng nhìn thấy em thật gầy ốm, nên bỗng quyết định chạy ào về lại trại mình, lấy các thực phẩm dành dụm đem đến cho vợ mà quên là không gì quý giá bằng yếu tố thời gian được ở cạnh nhau! Tôi may mắn chạy nhanh về lại trại vừa đúng lúc điểm danh, lẻn kịp đứng vào hàng, áo quần ướt nhẹp vì mồ hôi và hồi hộp. Thằng đội trưởng, có tên cúng cơm là Phước “rắn” vì tài bắt rắn của y và công làm antenne, chưng hửng vì nó phong phanh nghe có người lén rời trại nên quyết chí bắt cho được, ra lệnh điểm danh sớm hơn mọi ngày. Hú vía!

Khoảng mấy tháng cuối ở Trảng Táo, không hiểu vì sao tôi được anh quản giáo cao lớn, người Nùng tên Thân, giao làm một công việc lạ: chăm sóc vườn hoa màu của nhóm quản giáo ở với nhau trong một khu cách xa lán của trại tù, có rào xung quanh. Thế là ngày nào cũng như ngày đó, tôi vào vườn khoảng 8 giờ sáng làm việc cho đến 12 giờ trưa, về ăn trưa rồi trở lại làm việc cho đến 3 giờ chiều. Sau đó trở về lo bữa ăn tối cho tổ 5 đứa. Công việc vườn bao gồm tưới nước (từ giếng mình đào gần cạnh nhà quản giáo), bắt sâu, tỉa cây lá, nhổ cỏ dại, thu hoạch lần lượt những trái mướp ngọt (người Bắc không ăn mướp đắng), bầu, bí đỏ, những trái đậu, đậu bắp, rau muống, rau đay, cà chua, cà pháo, cà tím, su le, rau xanh, ớt… bỏ vào từng giỏ để trước nhà cho họ. Với những trái già tôi xắt nhỏ làm phân bón, chứ không thèm đem về cho tổ mình. Tuy nhiên họ cho phép tôi hái những đọt bí, hoa bí hoa bầu về tổ để cải thiện bữa ăn. Rõ ràng đây là một công việc quá nhẹ so với lao động bên ngoài, vì các bạn tù của tôi vẫn tiếp tục đi xa bên ngoài cắt tranh, chặt tre, chặt cây lớn cây nhỏ, rồi đốt hết để biến rừng thành những vùng trồng bắp – thật là một phí phạm tài nguyên, tôi thầm nghĩ - Tôi mường tượng như mình có được chiếu cố, đơn thuần một đặc ân hay dấu hiệu tôi sẽ sớm được thả về nhà. Nhất là khi anh quản giáo ấy nói với tôi: “Tôi về thăm nhà chừng một tháng. Rất hy vọng khi tôi về lại sẽ không còn gặp anh ở đây nữa!?” Cái lạ là không một bạn tù nào to nhỏ cho tôi là antenne. Ngược lại, các bạn xáp gần tôi, hỏi han, nghĩ rằng tôi lên trên ấy giúp các quản giáo sắp xếp hồ sơ, làm bản danh sách người về, người ở lại hay lại bị đưa đi trại khác. Tôi thường chỉ biết cười trừ. Đôi khi có vài bạn tù lớn tuổi rất nghiêm trang hỏi một cách căng thẳng về tình trạng của mình có sớm được cho về hay không. Tôi phải đành trả lời chung chung, “tôi đi đâu có anh theo đó”. Vậy là ai cũng vui hẳn và lên tinh thần.

Cùng thời gian đó, trại ra lệnh tất cả chúng tôi làm nhà nghỉ lớn, chia thành mười ngăn, mỗi ngăn có giường ngủ đủ cho 2 người và một cái bàn, hầu hết các vật dụng đều làm từ tre, để đón tiếp thân nhân đến ở lại đêm. Chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ một cách mau chóng. BS. Tôn Thất Sơn, một đàn anh của tôi và là người đầu tiên của Y Khoa Huế trở thành một Y sĩ Đại úy Nhảy Dù sau trận Hạ Lào 1971, một người rất được anh em trong trại tù nể nang, và tôi, cùng có tên trong danh sách đầu tiên được người nhà lên thăm. Hai ngăn lại sát cạnh nhau, có chung một vách tường mỏng bằng tre đan. Có lẽ cả đêm chúng tôi đều rất khó ngủ vì nghe tiếng rên rỉ tội nghiệp của những chiếc giường tre, tiếng to nhỏ thủ thỉ giữa vợ chồng… Các bạn trong tổ của tôi thay phiên nhau đem đồ bồi dưỡng lên tận phòng, nào chè, nào cháo ăn khuya, cơm chiên buổi sáng với cà phê bít tất. Khi vợ ra về sáng ngày hôm sau, tôi tự cho phép mình ngủ bù nguyên ngày. Ái da! Và sau này nghe vợ tôi thì ngủ gục trên chuyến xe lam về lại thành phố, dưới nhiều ánh nhìn ái ngại, tội nghiệp của các chị lớn tuổi hơn ngồi cùng xe.

Gần 2 tháng sau vụ thăm chồng, chừng 40 người có tên trong danh sách được thả về - trong đó có anh Tôn Thất Sơn và tôi - Trong đêm, nhiều bạn tù đến chung vui với tôi. Bốn bạn của tổ tôi vừa mừng cho bạn mình vừa tủi thân, tâm sự với nhau cả đêm không hết chuyện. Anh Ba Trí kín đáo nhờ tôi đem về cho gia đình anh một lá thư trong một phong bì dán kín. Tôi nhận lời không một do dự. Sau đó một anh tù lớn tuổi hơn tôi khá nhiều, đến năn nỉ rất tội nghiệp nên tôi cũng nhận thư của anh luôn. Trong đêm, tôi đọc kinh cám ơn Chúa và Đức Mẹ, xin cho tôi được bình an về đến nhà, và không quên cầu nguyện cho tôi không bị trắc trở nguy hiểm vì 2 lá thư này. Hành trang ra về của tôi rất đơn sơ, gồm cái ba lô nhẹ hều, cái mũ rộng vành, cây đờn guitar tự làm, và một đôi giày bata rách nát, bẩn thỉu. Mọi thứ còn lại tôi chia cho các bạn, kể luôn cả đôi giày quân đội của Mỹ, poncho, võng nylon, bidon nước và mấy lon guigoz với đồ ăn khô trong đó.

Năm giờ chiều, ngày 24 tháng 8, 1976, những người có tên trong danh sách ra về được tập họp trước sân nghe quản giáo lên lớp, căn dặn làm tốt bổn phận khi về đến nhà, khai báo với công an phường khóm, ghi danh lao động và tự động xin đi kinh tế mới. Mỗi chúng tôi được phát cho tờ giấy Quyết Định Thả. Cuối cùng, anh quản giáo lên tiếng 

chúng tôi biết một số các anh có nhận những lá thư của bạn nhờ mang về nhà cho họ. Nếu các anh tự giác bỏ các lá thư đó trước mặt mình, chúng tôi vẫn để cho các anh về và hứa sẽ không bắt phạt các người gởi thư lén. Đừng để chúng tôi lục soát và tìm thấy. Lúc đó chúng tôi sẽ giữ các anh lại trong trại và hủy lệnh cho các anh về.” 

Sau một im lặng tuyệt đối, có 4-5 người từ từ móc các lá thư trong áo quần để xuống đất. Tôi vẫn bình tĩnh đứng yên trong không khí ngột ngạt dưới cơn nắng cháy da. Vẫn với 2 lá thư nằm ép dưới chiếc tất mang trong giày. Mấy phút sau, anh quản giáo đi một vòng lượm các lá thư, rồi ra lệnh cho các bạn tù vừa thành thật bỏ các lá thư đứng ra một bên, phần còn lại sánh vai bước đi ra khỏi trại, hướng về phía nhà ga Trảng Táo. Đi một khoảng khá xa, tôi mới nhẹ nhõm thở thoải mái, với bước chân như đi trên nhung lụa. Cổng trại tù đóng lại sau lưng.

Đến nhà ga, mới biết không còn chuyến xe lửa nào về Sài Gòn, phải chờ đến sáng mai. Vậy là mọi người đi tìm chỗ ngủ qua đêm. Trải tạm mấy cái áo quần cũ xuống một khoảng đất còn nóng hổi, tôi nằm đó, ngắm nhìn trời đang dần tàn. Đang mơ màng, tôi bỗng nhìn thấy thằng Phước “rắn”. Tôi đứng dậy, chạy đến gần nó, vừa la hét văng tục kể tội nó vừa vung tay định quyết chiến với nó. Nhiều bạn tù chạy lại, kẻ đổ thêm dầu, người can gián, trong đó có anh Tôn Thất Sơn. Vì anh Sơn vốn là đàn anh trong Quân Y Nhảy Dù nên tôi nguội lại, nhưng vẫn nhất quyết đuổi hắn ta đi ngủ xa ra khỏi nhóm chúng tôi. Biết thân phận, nó bỏ đi nằm khuất đâu đó.

Trên chuyến xe lửa về Sài Gòn ngày hôm sau, một lần nữa chúng tôi cảm động đón nhận những thức ăn đưa đến tận tay từ những người xa lạ nhưng có cử chỉ thân thiện và ánh mắt bao dung. Ngay cả anh xe ôm chở tôi về nhà cũng chỉ lấy chút tiền tượng trưng. Đứng ở balcon nhìn xuống, em là người đầu tiên thấy tôi về. Vợ tôi từ trên lầu ba chạy bay xuống đón. Xúc động trong niềm hạnh phúc gặp lại, tôi lúng túng chạm vào ống bô xe nóng hổi lúc cúi người xuống xách đồ nên bị phỏng nặng một bên cánh tay.

Một giai đoạn mới đang mở ra, với những thử thách khó khăn mới, những thích nghi trong một xã hội xô bồ, nghèo đói và ngược ngạo.

– Vĩnh Chánh
(Tháng Tư, 2022)

No comments:

Blog Archive