Monday, June 7, 2021

Người đàn bà trong đêm 29 tháng Tư năm 1975

 

      Bs. Phạm Anh Dũng

  

Tôi, ngày xưa vẫn không bao giờ tin vào tôn giáo, Phật hay Chúa. Nhưng rồi có một chuyện xảy ra trong đời làm thay đổi cả ý đó. Chuyện xảy ra vào đêm 29 tháng Tư năm 1975 và sau đó năm nào đến những ngày tháng Tư, tôi và Minh Hà vẫn nhắc lại cho nhau.

 

Năm 1974, ra trường Y Khoa Sài Gòn và khóa 21 Quân Y Hiện dịch sau khi học khóa huấn luyện sau cùng ở Tổng Y Viện Cộng Hòa, đến lúc chọn đơn vị. Tháng Ba năm 1975, tôi ra miền Trung làm y sĩ cho Sư Đoàn 3 Bộ Binh, đơn vị đầu tiên và cũng là cuối cùng trong đời quân đội. Chỉ khoảng hai tuần sau, ngày 29 tháng Ba 1975 Đà Nẵng mất và may mắn tôi thoát được bằng đường biển.

 

Về đến Sài Gòn, tình hình căng thẳng, thành phố rối loạn, dân chúng tìm đường đi. Tôi bàn với Minh Hà và xin phép bố mẹ hai bên làm một đám cưới, để khi cần, có thể cùng chạy với nhau.

 

Sau đám cưới, thật nhỏ và thật đơn giản, tôi trở ra Bà Rịa để theo lệnh “tái phối trí” Sư Đoàn 3 Bộ Binh, nhưng không gặp một quân y dược hay nha sĩ nào trong Tiểu Đoàn Quân Y. Đành quay về lại Sài Gòn và trên đường về, tôi gặp một số quân lính của Sư Đoàn 18, từ Xuân Lộc cũng đang thoái lưu về hướng Sài Gòn. Niềm hy vọng cuối cùng coi như sắp chấm dứt.

 

Chiều ngày 29 tháng Tư năm 1975, không có phương tiện và cũng chẳng có quen ai, tôi dẫn Minh Hà ra bến sông Bạch Đằng ở Sài Gòn. Không ai trong gia đình hai bên có can đảm đi theo. Căn cứ Hải Quân đóng kín bằng hàng rào kẽm gai. Chẳng mấy chốc đêm tối đổ xuống, vài tiếng súng nổ đâu đó và dân chúng hỗn loạn, không có đường thoát.

 

Trong đêm lúc tôi và Minh Hà vẫn đi loay hoay quanh bến tàu, có một người đàn bà không hiểu ở đâu ra, gọi với tôi cho biết cổng vào của Hải Quân đã mở. Cả ba chúng tôi cố đi thật nhanh như chạy và len thoát qua được cổng, vào trong căn cứ Hải Quân.

 

Tàu đầu tiên gặp là HQ-1 nhưng hàng ngàn người đã đứng xếp hàng đợi lên tàu ở chỗ thang lên tàu và chúng tôi những người ở hàng cuối cùng, đứng đợi không có hy vọng đến lượt. Tự nhiên người đàn bà đã dẫn dắt chúng tôi nói với Minh Hà, cho biết đằng sau tàu có người đang leo dây lên tàu.

 

Thế là cả ba người đi ra phía sau của tàu. Nhưng khi đến chỗ có người leo dây lên tàu thì tôi và Minh Hà không còn thấy người đàn bà đó nữa.

 

Tôi nắm dây, từ dưới đẩy Minh Hà, nhờ người ở trên kéo lên trước và chính mình leo dây theo sau. Lên được tàu thì chỉ độ hai phút đồng hồ sau lính Hải Quân chặt dây ở thang lên tàu để tàu ra khơi.

 

Ngày 30 tháng Tư năm 1975, lênh đênh trên biển chúng tôi được tin Sài Gòn đã mất.

 

Đến bây giờ tôi vẫn không biết người đàn bà dẫn dắt chúng tôi là ai. Minh Hà tin và tôi đồng ý, chắc chắn là Phật Bà Quan Âm hay Đức Mẹ, đã đến với chúng tôi trong lúc tuyệt vọng. 

 

(Phạm Anh Dũng - tháng Tư năm 2013)

 

 

===========

 

 

   

The lady of the night of April 29th 1975

 

 

Previously I never believed in religion, in either Buddha or God. But then something happened in my life on the night of April 29,1975 that changed my mindset. Since then on the days of the month of April of the ensuing years, Minh Ha and I, we kept reminding ourselves of this event.

 

In 1974, I finished my medical studies at the Saigon Medical School and I graduated as a military physician -21st promotion class of 1974- of the Military Medical School, After one more training course at the Cộng hòa General Hospital, it was time to choose unit posting. In March 1975, I was assigned as a military physician for the 3rd Infantry Division stationed in Central Vietnam. That was the only one assignment of my military career. Only about two weeks later, on March 29, 1975 Da Nang fell and luckily, I managed to escape by sea.

 

Back to Saigon, the situation was tense, the city was in turmoil, and people were looking for ways to escape. I discussed with Minh Ha and asked permission from parents on both sides for us to get married, so that when time came for us to escape, we could flee together.

 

After the wedding, kept very small and simple, I went back to Ba Ria to follow the order of “redeploying” of the 3rd Infantry Division. There I did not meet any physician, pharmacist or dentist in my Medical Battalion. On my way back to Sài Gòn, I met groups of soldiers of the 18th Infantry Division from Xuân Lộc who were also retreating to Saigon. My glimmer of hope seemed to be dying off.

 

On the afternoon of April 29, 1975, without any connections and without any means of transportation I took Minh Ha to the Bach Dang wharf of the Saigon River. No one in the family on either side had the courage to follow us. The Naval base was closed with barbed wires. Soon darkness fell, somewhere a few shots were fired and the people were in commotion looking for ways out.

 

During the night while Minh Ha and I were still walking around the pier, a woman we did not understand where she came from, called to tell me that the entrance to the Naval base was open. The three of us tried to go as fast as we could, almost running, and managed to creep through the gate inside the Naval base.

 

The first ship we encountered was HQ-1 but there were already thousands of people waiting in line to get on the ladder to board the ship and here we were in the last row, with no hope for our turn. Suddenly the woman who previously led us inside the Base told Minh Ha, that in the back there were people climbing ropes to get into the ship.

 

So the three of us went to the back of the ship . When we got to this place where people were climbing the rope to get into the ship Minh Ha and I could no longer see that woman.

 

I grabbed the rope, pushed Minh Ha from below, asked the person from above to pull her up, after that I climbed up the rope myself. About two minutes after we got on board the sailors cut the rope on the boarding ladder for the ship to go to sea.

 

On April 30, 1975, while afloat at sea, we learned of the fall of Saigon. Up until now we still do not know who this woman who led us is. Minh Ha believes with certainty- and I concur with her- that it was either Lady Guanyin or the Virgin Mary that had come to us in our moment of despair.

 

(Translated in English by Đặng-vũ Vương 2021)

No comments:

Blog Archive