Monday, April 27, 2009

Sài Gòn, Những Giờ Phút Hấp Hối

Hồ Đinh

Hai mươi năm chinh chiến, bao giờ cũng vậy, tới lúc cuối cùng chờ chết, vẫn là người lính trận và đồng bào nghèo, không có phương tiện để vượt thoát khỏi cảnh bom đạn. Lính chết thật oan khiên v́ chiến đấu trong đơn độc, không có đồng minh cũng như đồng đội yểm trợ, ở́ vào giờ thứ 25, đâu có ai ngu như người lính VNCH, ở lại chết để không có tiền tử tuất, kể cả chiếc quan tài vùi thây đời lính. Biết nghĩ như vậy, những ai còn sống sót tơí ngày hôm nay, phải nhỏ một giọt nước mắt, dù muộn màng để cảm ơn họ. Lính chết oan khiên chẳng những ngoài chiến trường khi phải đối mặt với kẻ thù hung ác, mà còn chết lãng nhách nơi hậu phương bởi những cái lưỡi tắc kè xanh xanh đỏ đỏ, giờ này nhìn lại cũng đỏ đỏ xanh, đâu có thấy đổi màu.

Thảm nhất là trên đầu lính, gần hết là bọn lãnh đạo tồi, thứ này giờ đă hết răng để mà ăn, nhưng lúc nào cũng muốn chường ra giữa bia miệng, chọc cho thuộc hạ và con cháu khinh nhờn, khi cứ xưng chức, đeo huy chương và trả lời những phỏng vấn cuội, như mới đây có đám việt gian ở hải ngoại về Sài Gòn phỏng vấn lũ tướng đầu hàng VC, trong đó có Nguyễn Hữu Hạnh và Triệu Quốc Manh, thuộc hàng tép riu, không quân, không đơn vị trước khi Dương Văn Minh được làm tổng thống hai ngày, để bắt QLVNCH buông súng rã ngũ...

Người lính Miền Nam bi hùng là thế đó, như vậy làm sao bảo họ phải chiến thắng khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có Liên-Xô và Trung Cộng ? Người lính đã ở lại tới giờ phút cuối cùng vào trưa ngày 30-4-1975, đã là anh hùng thử hỏi có quân đội nào anh hùng hơn, kể cả quân Pháp, Đức, Anh trong Thế chiến 2.

Sau khi Hoa Kỳ cùng Bắc Việt đồng thuận ngụy tạo cuộc ngưng bắn bịp vào tháng 2-1973, chấm dứt sự hiện hữu của Mỹ tại chiến trường. Cũng từ đó, QLVNCH bị đem con bỏ chợ, chiến đấu trong thiếu thốn, thiếu cấp chỉ huy trên thượng tầng, thiếu đạn dược, thuốc men, xăng nhớt, các quân dụng khiến cho nhiều phi cơ, chiến xa phải nằm ụ vì́ không cơ phận sửa chữa hay thay thế. Tóm lại mọi sự đều do người bạn (?)đồng minh Hoa Kỳ tạo ra, như cắt quân viện, bội ước lời thề ' một đỗi một ' được chính siêu cường ký nói hứa hẹn bằng giấy trắng mực đen.

Trong khi đó thì Bắc Việt, từ Hồ Chí Minh tới Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng.. đã đem mảnh giang sơn gấm vóc của tiền nhân, cầm bán thế chấp cho đệ tam cộng sản, nên được cả khối như Liên Xô-Trung Cộng, Đông Âu, Bắc Hàn, Cu Ba, các đảng cộng sản Ý, Pháp, Mỹ và những thành phần ăn cơm miền nam lại theo VC miền bắc, giúp đỡ hết lòng, từ cây kim hột gạo, cho tới bom đạn, tăng, máy bay, tiền bạc và những cái lưỡi tắc kè đỏ đỏ xanh xanh đảo lộn sự đời. Tệ nhất là lũ hề hữu danh vô thực, trong cái gọi là Liên Hiệp Quốc, lúc nào cũng bưng bợ Hà Nội, như muốn đổ dầu vào biển lửa thống hận trùng hằng tại Miền Nam.

Không chịu nổi cái cảnh ứa gan, hiếp người ngă ngựa, nhà bình bút quân sử thế giới lương thiện và nổi tiếng là Louis A Fanning, đă phải viết lời chửi Mỹ : ' Sau hiệp định Paris 1973, hơn 300.000 bộ đội cộng sản quốc tế, được người Mỹ bỗng dưng tự tác cho ở lại trên lănh thổ của nước khác. Đó là Miền Nam VN, một quốc gia độc lập, có chủ quyền, quốc hội và không hề là thuộc địa hay các tiểu bang của Hoa Kỳ. Trong lúc đó, VNCH là một đồng minh với Mỹ từ khuya, lại bị chính Mỹ phản bội, lường gạt, cắt viện trợ và sỉ nhục mọi điều . Đúng là thái độ của bọn con buôn chính trị, hèn chi người Mỹ đă bị thế giới tự do coi thường, vì́ đă bội tín với nhiều đồng minh của mình.'

Viết về tình trạng đồng bào VN, sống giữa cảnh chết chóc của chiến tranh mạt kiếp, đáng lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu không có đảng cộng sản Hà Nội, khiến cho đất nước sau khi Nhật đầu hàng, thay vì sẽ có ḥòa bình như nhiều nước trong vùng Á Châu, lúc đó cũng đang là thuộc địa của bọn thực dân da trắng. Để diễn tả sự bất hạnh này, nhà báo người Tây Đức Une Siemon Netto, đă viết trong tờ International Herald Tribune : "giờ thì mọi người đă biết rõ cái thực chất cách mạng cứu nước, mà cộng sản Hà Nội luôn dùng làm chiêu bài, để có cớ gây nên một cuộc chiến vô luân, nồi da xáo thịt. Tiếc thay trước tháng 5-1975, nhiều trí thức khoa bảng và nhà báo Tây Phương, đă biết rõ cộng sản đệ tam quốc tế gây chiến tranh chỉ vì ý thức hệ và trên hết chúng rất dă man tàn bạo ".

Nhưng vì họ ích kỷ, hám danh và trên hết nhiều kẻ đă táng tận lương tâm, nên muối mặt, bẻ cong ng̣òi bút, viết láo sai sự thật, để đầu độc mọi người, nhất là dân chúng Hoa Kỳ, đang có nhiều người thân tham dự cuộc chiến thần thánh, bảo vệ tự do cho nhân loại tại Đông Dương, đang bị Đệ tam cộng sản quốc tế tàn sát nhuộm đỏ.'. Hành động vô lương của bọn bồi bút, đă gây nên nhiều nổi oan khiên tội nghiệp, khiến bao oan hồn lương dân vô tội, đă bị bộ đội cộng sản miền bắc tàn sát dã man trong tết Mậu Thân, nhất là tại Huế. Rồi mùa hè đỏ lửa 1972 trên đại lộ kinh hoàng, từ Đông Hà về Huế, trên quốc lộ 14 Dakto-KomTum, đường 13 An Lộc-Bến Cát và đoạn đường số 1, từ Tam Quan-Hoài Nhơn-Phù Mỹ về Qui Nhơn, qua những Lai Giang, sông Côn, sông Cả..

Nhưng bi thảm nhất cũng vẫn là những ngày cuối cùng di tản tại Vùng I, vùng II trên đường số 7, dân chúng lánh nạn gục chết như rạ vì đạn kích pháo của giặc, không cần biết hay thương hại cho mạng người lá rụng, dù những mạng sống đó vốn cùng bộ đội VC, chung cháu Lạc Con Hồng.. Tóm lại tất cả đều vô lý, đă khiến cho nhiều nhà báo ngoại quốc sau này, phải kêu trời không ngớt, vì tự vấn lương tâm khi họ đả vô tình hay cố ý, câm nín trước những thảm trạng của nam VN. Trong lúc đó vụ Mỹ Lai (Quảng Ngăi), do chinh Hà Nội giật dây đạo diễn, đẩy dân lành vô tội ra làm bia đỡ đạn cho lính Mỹ, thì được bao chí Tây phương làm lớn chuyện, tuyên truyền không công cho Hà Nội, trong suốt cuộc chiến.

Sài Gọ̀n đă bắt đầu xáo trộn từ tháng 3-1975, từ lúc miền Trung bị mất qua quyết định sai lầm rút bỏ quân đoàn I và II của TT. Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH lúc đó. Ngày 21-4-1975, Tổng Thống Thiệu qua áp lực của Mỹ, muốn thay ngựa theo ý của cộng sản Bắc Việt, để ḥòa hợp ḥòa giải, nên ông phải tuyên bố từ chức tổng thống trong lúc đất nước nguy ngập, ngàn cân treo chỉ mành và đã cùng Thủ tướng Khiêm, được Tòa Đại Sứ Mỹ, đưa ra khỏi Sài Gọ̀n, tới Đài Bắc trong đêm tối bằng máy bay quân sự. Việc bỏ nước ra đi của TT. Thiệu, khác với trường hợp của Thủ Tướng Khiêm hay Đại Tướng Viên, vì hai người này chẳng hề bị đe dọa hay bắt buộc.

Trái lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ thứ 25 của VNCH trong tháng 4-1975, giống như cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 2-11-1963, được quyết định bởi bàn tay của người Mỹ. Tổng Thống Diệm không cho người Mỹ đem quân vào VN nên bị giết trong danh dự. TT Thiệu khôn ngoan từ chức ra đi, nên được sống những ngày thừa nơi quê người, chịu bia miệng nguyền rủa, vì ham sống sợ chết, dù rằng con kiến cũng muốn sống. Đó là sự thật của lịch sử, của thân phận nhược tiều VN, mà các tài liệu Mỹ đă hé mở cho mọi người cùng đọc, trong vài năm trước đây và còn được lưu trữ phổ biến khắp mọi văn khố, kể cả VC. Ngoài ra, cũng theo sử liệu, chính Tổng Thống Trần Văn Hương, muốn người Mỹ đem Tổng Thống Thiệu ra khỏi nước, mà theo TT Hương, đó là kỳ đà cản mũi, nên ông ta không thể trị nước hay chống Cộng được.

Thương nhất là Cụ Trần văn Hương lúc đó, đă gần đất xa trời, thêm mắt mũi kém, lại bị Mỹ bắt làm Tổng Thống VNCH, theo điều kiện của Bắc Việt. Nguyên thủ như vậy, nên miền Nam bị mất là cái chắc, dù sớm hay muộn cũng thế thôi.

Sau đó lại màn thay ngựa cuối cùng, để Dương Văn Minh danh chánh ngôn thuận, kết thúc cuộc chiến từ đầu cũng do VC sắp đặt và cuối cũng cũng do VC quyết định, qua miệng kẻ cầm quyền của miền Nam, dù chỉ có hai ngày ngắn ngủi.

Chiều 28-4-1975, đại tướng Dương văn Minh đăng quang Tổng Thống VNCH. Đây là lần thứ hai ông làm xếp chúa cả Miền Nam, mà lần nào cũng thật ngắn ngủi không có danh dự, vì được các thế lực chính trị con buôn, bồng đặt lên chiếc ngai vàng ba chân nên không làm cho ai kính phục được. Chiều hôm đó, trời Sài Gọ̀n như phủ kín màn mây tang tóc, báo trước hy vọng của dân quèn chỉ muốn an phận ngày qua ngày với chén cơm rau, đă sắp tan biến thành mây khói bom đạn, đang ập sát phận hèn. Trong lúc đo, nơi hậu trường, qua đài phát thanh và truyền hình, tân tổng thống Minh tuyên bố là sẽ đánh đuổi VC về Bắc để chiếm lại lănh thổ đă mất, khi Mỹ rút hết về nước trong 24 giờ ấn định.

Dương văn Minh cho biết, từ nay QLVNCH không cần chiến đấu nửa, vì bên kia đă hứa sẽ hòa hợp hòa giải hòa bình. Nhưng cũng lúc đó, khi bài diễn văn chưa chấm dứt, thì những trái đạn từ các máy bay A37 của tên phi công nằm vùng Nguyễn Thành Trung, từ trời rớt xuống, nổ tung tàn phá mọi vật, như chứng thật lời nói ba hoa của kẻ hám danh mà thực chất rất ấu trĩ về chính trị và sự hiểu biết.

Lừng khừng lại ngộ lẩm cẳm, bất tài vô tướng như Dương văn Minh, mà từ đầu tới cuối mùa chinh chiến, lúc nào cũng muốn nhẩy xỏm lên ghế vua chúa hay là người hùng. Thảm thê ơi đất Việt, suốt mấy thế kỷ qua, chỉ thấy toàn bọn sâu bọ đội lớp khoa bảng, trí thức, vua chúa, quan quyền, quyết định sinh mệnh của cả một đất nước, dân tộc. Bởi vậy đất nước không bị suy thoái hay nô lệ ngoại bang, mới là chuyện lạ trên đờị . Tình trạng nước ta, thật đúng với nhận xét của Thủ tướng Anh Wintons Churchill : " Chỉ vì bọn cầm quyền, lănh tụ, muốn cầu an hưởng lợi, nên đă chọn sự lừng khừng, cuối cùng gây đại họa cho đất nước "

VNCH đang lúc lâm nguy vì thù trong giặc ngoài. Cả triệu quân, công, cán cảnh.. lúc đó đang xả thân, dùng xác người thay súng đạn Mỹ, làm công sự cản xe tăng hứng đạn pháo của cộng sản khắp mọi nẻo đường dẫn vào thủ đô, thì cũng lúc đó nhưng sâu bọ nơi hậu trường chính trị, hăng say toác mồm, áo thụng vái lạy ông, bày ra những trò hề tác tệ, để tự phong quan gắn chức, làm nản chí những người lính đang xả thân nơi chiến trường, bắt QLVNCH phải tan hàng ră ngũ trong tức tủi oan khiên và cuối cùng làm cho cả nước phải sống đọa đày thương đau, trong cùm gông xă nghĩa từ ấy cho tới bây giờ, vẫn không hề thay đổi, vẫn không có tự do dù chút tự do để nói lời chân thật trong đáy hồn mình.

Nhưng dù gặp khó khăn nguy hiểm, các lộ quân còn lại của VNCH vẫn cản nổi quân xâm lăng Bắc Việt, trên khắp các tuyến đường dẫn vào Sài Gòn. Chính hành động phi thường này, nên dù VNCH không còn nửa, vẫn được thế giới ngợi khen và kính phục, như Peter Kohn đă viết trên tờ the Wall Street Journal :

Thế nhưng từ khi Hoa Kỳ rút quân về nước hay lúc đầu quân Mỹ chưa vào VN, vẫn hiên ngang chiến đấu trong suốt 20 năm kḥi lửa, gần như bảo toàn trọn lănh thổ của cha ông, từ phía bên này vỹ tuyến 17 cho tới Cà Mâu, đến khi bị Việt gian đâm sau lưng, VC bắn trước mặt, mới đành để mất non sông vào tay đệ tam cộng sản quốc tế.

Cũng vì phải chiến đấu khắp các mặt trận, nên đă có hằng trăm ngàn người lính phải chết, hằng triệu thương phế binh, cô nhi quả phụ. Tới giờ phút cuối cùng, đă biết nước sắp mất, chết chỉ thêm uổng mạng nhưng họ vẫn hiên ngang chiến đấu tại Khánh Dương, Phan Rang, Phan Thiết, Xuân Lộc, Long An, Tây Ninh, Củ Chi , Biên Ḥa và Sài Gòn. Tất cả đều là những chiến tích để đời và lưu danh thiên cổ trong dòng sử Việt

Cuối cùng trong giờ thứ 25, QLVNCH đă xử sự một cách mă thượng anh hùng. Thay vì dùng vũ lực bắt trọn Toà Đại Sứ và Cơ Quan D.A.O làm con tin, như Iran đă từng làm, để gây áp lực, bắt Hoa Kỳ phải giữ lời hứa, dùng B52 đuổi bộ đội cộng sản rút về phía bên kia vỹ tuyến 17 như Hiệp định Geneve năm 1954. Nhưng họ vẫn không làm như vậy, vẫn tôn trọng kỷ luật quân đội, biểu lộ nét hào hùng văn hiến ngàn đời của một dân tộc có văn minh, văn hóa VN, khi cố gắng phòng thủ và tiếp tục chiến đấu khắp nơi, giúp cho Mỹ và những đồng đội, cấp chỉ huy hèn nhát, bỏ chạy khỏi nước một cách an toàn, trước khi giặc Hồ vào Sài Gòn trưa 30-4-1975.
HỌ ĐÁNG ĐƯỢC CA TỤNG VÀ KÍNH PHỤC .

2- QLVNCH tử chiến trong giờ thứ 25 :

Sau khi được 400.000 quân Trung Cộng phòng thủ đất Bắc, cộng sản Hà Nội xua toàn bộ quân đội xâm lăng miền Nam . Mai mỉa nhất là lúc mà Dương Văn Minh cùng nội các mới, hy vọng được hòa hợp hòa giải với VC, để chúng chia chức, nhín cho một chút quyền trong cái chính phủ liên hiệp, nếu có cũng chỉ là thứ bù nhìn, như MTGPMN được dựng lên, từ 12-1960 tới tháng 5-1975. Đây chính là thời điểm , mà Bắc Bộ Phủ gọi là giờ G, ngày N, để tổng tấn công chiếm Sài Gòn. Đó là lúc nửa đêm 29-4-1975, thời gian Hà Nội qui định cho tất cả các cánh quân, từ năm hướng tiến vào thủ đô. Đây cũng là thời gian qui định cho bọn đặc công, biệt động nằm vùng, chui ra khỏi các hang ổ để gây hỗn loạn trong thành phố, chỉ đường, bắt tay cho bộ đội miền Bắc.
Tại Mặt Trận Miền Đông Nam Phần, từ sau ngày SĐ18BB và Lữ Đoàn 1 Dù, rút lui an toàn về Bà Rịa, Quân Đoàn III đă tái phối trí lại các phòng tuyến mới vào những ngày cuối tháng 4-1975.

Vì SD18 BB của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo bị thiệt hại nặng nề sau 12 ngày ác chiến với cộng sản Bắc Việt. Ngoài Trung Đoàn 48/18 của Trung Tá Công, tương đối quân số còn nguyên vẹn, các Trung Đoàn 52/18 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng, tại Mặt Trận Ngã Ba Dầu Giây-Túc Trưng, thiệt hại hơn 80% quân số và Trung Đoàn 43/18 của Đại Tá Lê Xuân Hiếu, tử thủ trong thị xă Xuân Lộc, thiệt hại trên 30% nhất là Tiểu Đoàn 2/43/18 của Thiếu Tá Nguyễn Hữu Chế, là đơn vị cuối cùng rời Long Khánh.. Do đó sau khi chỉnh đốn lại đơn vi, SD18BB được giao trách nhiệm phọng thủ tuyến phía đông Sài Gòn, từ kho đạn thành Tuy Hạ chạy dài tới Tổng Kho Long Bình. Riêng BCH Hành quân của SD18BB đặt tại căn cứ Hải Quân Cát Lái. Phọ̀ng tuyến của SD 18BB tiếp giáp với vị trí phòng thủ của Lực lượng Nhảy Dù, Trường Thiết Giáp và Bộ Binh Thủ Đức.

Tỉnh Phước Tuy và Đặc Khu Vũng Tàu, trong đó có quốc lộ 15 được Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, SD3BB phối họp với các lực lượng DPQ + NQ của Phước Tuy và Bình Thuận di tản từ miền trung tới. Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SDTQLC kiêm Tổng trấn đặc khu Vũng Tàụ Riêng SD3BB từ vùng 1CT di tản vào, quân số kể luôn SD1BB cộng được hơn 1000 người, lập thành 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 2/3 và 56/3 vẫn do Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh làm tư lệnh. SD3BB được tăng cường thêm Chi đoàn 2/15 Thiết Kỵ và Lữ Đoàn 1 Dù, bảo vệ QL15, thị xă Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tỉnh Biên Ḥa và phi trường do Lực lượng III xung kích của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi, được tăng phái thêm 2 Lữ đoàn 147 và 258 TQLC phòng thủ. Từ ngày 28-4-1975, để bảo vệ thành phố Biên Hòa, Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù bố trí trong phi trường giữ mặt bắc Bộ tư Lệnh QDIII. Một TD/TQLC thuộc Lữ Đoàn 2 bảo vệ BTL.QDIII, các thành phần còn lại của Lữ Đoàn, phòng thủ mặt nam BTL. Quân Đoàn. Lữ Đoàn Nhảy Dù giữ hai Cầu Mới và Sắt cùng các nút chận vào thị xă. Riêng Lực Lượng III Xung kích gồm Chiến Đoàn 315 phòng thủ từ Ngă ba Hố Nai đến Ngă tư Lò Than. Chiến đoàn 322 giữ từ Ngă tư Lò Than tới cổng phi trường Biên Hòa và Chiến đoàn 318 từ phi trường tới Cầu Mớị

Về phía bắc Sài Gòn có SD25BB của Chuẩn tướng Ly Tòng Bá được tăng phái thêm hai Liên Đoàn 8 và 9 Biệt Động Quân, trách nhiệm Tây Ninh và Củ Chi-Hậu Nghĩa. Mặt trận phiá bắc tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của SD5BB của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, với Trung Đoàn 8/5 của Đại Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng tăng phái cho Lực Lượng III Xung kích của Tướng Khôi ở Hưng Lộc, vừa được trả về. Phòng tuyến phía nam Sài Gòn là Long An, có SD22BB ở Bình Định di tản tới, phối hợp với Lực Lượng 99 Tuần Thám Ngăn Chận của Hải Quân và DPQ+NQ. Long An, từ lâu nổi tiếng là kiêu dũng thiện chiến, không kém gì quân chủ lực.

Như vậy trừ ba SD7,9 và 21BB của QDIV phải bảo vệ lănh thổ, phía VNCH chỉ còn tất cả chừng sáu Sư Đoàn gồm SD5,18,22,25 bô binh + Hai Lữ Đoàn 1 và 4 Nhảy Dù + Sư đoàn TQLC + Lực Lượng III Xung Kích +Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù +4 LiênĐoàn BDQ + DPQ và NQ + 625 chiến xa đủ loại và 400 pháo, tất cả chừng 240.000 người, để bảo vệ Sài Gòn. Trong khi đó VC tung vào 5 lộ quân với quân số trên 280.000, gồm 15 Sư đoàn BB + 5 Lữ đoàn biệt lập + 4 Lữ đoàn thiết giáp + 6 Trung Đoàn Đặc công.

Từ chiều ngày 29-4-1975, hai Bộ Tư Lệnh Không quân và Hải quân VNCH đă di tản chiến thuật, kể cả Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QDIII) và Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng TMT từ chức. Do đó, tổng thống mới nhậm chức là Dương Văn Minh, cử Tướng Vĩnh Lộc lên thế chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Đến tối cùng ngày, Tướng Lộc ra lệnh cho SD18BB về bố trí từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, tới Thủ Đức.

Đầu tháng 4-1975, trường Bộ Binh lúc đó từ Thủ Đức đă dời về Long Thành-Biên Ḥa, đông nghẹt sinh viên các khóa, trong đó có hai quân trường từ Đà Lạt di chuyển về như Trường Võ Bị và Chiến Tranh Chính Trị. Lúc 8 giờ tối ngày 27-4-1975, trường Bộ Binh lại có lệnh di chuyển trở về trường cũ ở Thủ Đức. Tới 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, có bốn T54 của cộng sản Bắc Việt từ Xa Lộ Biên Hòa, tấn công trường, bị Pháo Binh 105 bán trực xạ cháy 3 chiếc tại chỗ. Nhưng chiếc còn lại đă nhập dược vào trung tâm, sau khi thoát được các tầm đạn M72 của sinh viên, bắn tử thượng Trung Tá Ông văn Tuyên, Trung sĩ I Nhân và 5 sinh viên, cùng 10 người bị thương, trong số này có Trung Tá Vương Bá Thuần. Cuối cùng chiếc tăng trên bộ ra khỏi trường và bị M72 bắn đứt xích, nằm tại Niệm Phật Đường cạnh Chợ Nhỏ, nhưng vẫn tác xạ dữ dội vào trường. Cuối cùng có hai sinh viên Thủ Đức, chưa được gắn Alpha, tình nguyện mang lựu đạn lân tinh loại xuyên phá, mới tiêu diệt được chiến T54 nàỵ

Cũng tại Long Bình vào sáng ngày 29-4-1975, Tiểu đoàn 43 thuộc Liên Đoàn 4 BDQ, do Thiếu Tá Xẻn làm TDT, được lệnh của Biệt Khu Thủ Đô, tăng phái phòng thủ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Từ 2 giờ 30 chiều cùng ngày, VC đă về tới Trung Chánh-Hóc Môn, sau khi chiếm được Căn cứ Đồng Dù của SD25BB, căn cứ Pháo binh Lòng Tảo và đánh tan Trung Đoàn 46/25BB trên QL số 1 từ Củ Chi về Tân phú Trung. Lúc đó Trường Quân Vận đối diện với TTHL Quang Trung cũng đă mất, nên Chiến xa của VC bắt đầu tấn công trung tâm, nhưng không ngờ trong đó không phải chỉ có tân binh quân dịch, mà còn sự hiện diện của một tiểu đoàn BDQ vơí hơn 500 tay súng, suốt cuộc chiến, đă cùng với các TD41,42,44 là những cọp ba đầu rằn tung hoành như chỗ không người trong mật khu sình lầy của Vùng 4 Chiến thuật.

Tối 29-4-1975, qua hệ thống truyền tin của TD43BDQ, mới biệt BTL Biệt Khu Thủ Đô đă bỏ chạy, chỉ còn các sĩ quan cấp uy ở lại nhưng BCH. Biệt Động Quân và Tướng Đổ Kế Giai vẫn còn nguyên vẹn tại Trại Tô Hiến Thành. Bên trong chiến hào của TTHL Quang Trung, cũng như suốt đoạn đường từ ngă ba Trung Chánh- Hóc Môn, về tới Ngă ba Bảy Hiền, các đơn vị kiệt hiệt nhất của QLVNCH như BDQ, Biệt Cách Dù và Nhảy Dù đang đợi chờ một trận đánh cuối cùng dũng liệt như SD18BB, LD1ND,TD82BDQ và DPQ Long Khánh, tại Xuân Lộc, thì trưa 30-4-1975 bị Dương Văn Minh ban lệnh buông súng ră ngũ, một cách tức tủi đoạn trường.

5 giờ chiều ngày 29-4-1975, các mặt trận, lính vẫn chiến đấu không ngừng nghĩ. Tại Biên Hòa, TQLC, Biệt Cách Dù và các Chiến Đoàn thuộc Lực Lượng III Xung Kích, đă ngăn chống VC tại các phòng tuyến một cách đẫm máu kinh hoàng.

Tại BCH. Thiết Giáp trong trại Phù Đổng, cũng là nơi đặt tạm BTL.QDIII từ Biên Hòa di tản về, cũng như Trung Tâm Hành Quân / TTM/QLVNCH gần như không còn đại bàng để nhận tin chiến trường và quyết định lệnh lạc. Cho tới 22 giờ 30 đêm 29-4-1975, Phế tướng Nguyễn Hữu Có, người vào năm 1965 bị Nguyễn Cao Kỳ lột chức và bắt ở lại Hồng Kông không cho về nước, cách đó vài giờ, vừa được Dương Văn Minh gắn cho cái lon Trung Tướng, lên máy ra lệnh cho SD18BB của Thiếu Tướng Đảo và LL3XK của Tướng Khôi, cố gắng giữ yên phòng tuyến trong đêm 29-4-1975, để rạng sáng ngày 30-4-1975 sẽ có hòa bình vì cộng sản Bắc Việt đă chịu hòa hợp hoà giải hòa chung máu lệ với TT. Minh và lực lượng thứ ba đối lập..

Nhưng 23 giờ 45 đêm 29-4-1975, Bắc Việt đă không hòa hợp mà lại tấn công dữ dội bằng bộ binh và chiến xa khắp các phòng tuyến tại Biên Hoà. Hai bên gần như cận chiến với khoảng cách chừng 10-15m, nhất là tại phòng tuyến do quân Dù, TQLC và Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đổ Đức Thảo có chiến xa M48.

2 giờ sáng ngày 30-4-1975, phòng tuyến SD18BB của Tướng Đảo tại Long Bình bị VC tràn ngập, quân ta từ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa phải rút về Thủ Đức.

Riêng Chiến Đoàn 3, thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù của Thiếu Tá Phạm Châu Tài, quân số hơn 1000 người, từ Biên Hòa được điều động về bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu từ 5 giờ 30 ngày 26-4-1975. Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn đóng tại Building số 1, đối diện vối Trại Võ Tánh. Các Biệt đội 811 của Đại Úy Lâm đóng trong Lục Quân Công Xưởng. Biệt đội 812 của Đại Úy Ánh đóng ở giữa cổng sau TTM và Tổng Y Viện Cộng Hòa. Biệt đội 813 của Đại Úy Thạch rải quân từ Ngă Tư Bảy Hiền tới Trại Phi Long của Nhảy Dù và Biệt Đội 815 của Đại Úy Lợi là lực lượng trừ bị của Chiến Đoàn, đóng trước cổng Bộ TTM.

Từ ngày 28-4-1975, các đại bàng ở Bộ TTM, Bộ Tư Lệnh QD3, Quân Khu Thủ Đô.. từ Đại Tướng trở xuống đă di tản chiến thuật, nên coi như không còn ai ra lệnh cho thuộc cấp dưới quyền. Về việc tên phi công nội tuyến Nguyễn Thành Trung, dẫn đoàn máy bay của KQ.VNCH bỏ lại ở Phù Cát, Phan Rang vào oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhất, không bị Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù bắn hạ, vì đă tưởng là phe ta làm đảo chánh.

Chiều ngày 29-4-1975, tướng Vĩnh Lộc được TT. Minh cử làm Tổng Tham mưu trưởng thay Cao Văn Viên, còn Nguyễn Hữu Có thỉ gắn ba sao, xưng là Tổng Tham Mưu Phó. Ngoài ra còn có VC nằm vùng Nguyễn Hữu Hạnh, cũng được Dương Văn Minh gắn sao tướng, dù Có và Hạnh đă bị giải ngũ từ lâụ Mới đây VC lại cho các tên hề Có, Hạnh và Triệu Quốc Mạnh làm cuộc phỏng vấn cuội tại Sài Gòn, do bọn Việt gian hải ngoại từ Canada về thực hiện, rồi đem phát trên đài để lừa bịp người Việt trong và ngoài nước, một cách trơ trẽn vì câu chuyện lăng xẹt của đám sâu bọ, từng làm xấu hổ danh dự và thể thống của người lính VNCH năm nào.

Từ 6 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, VC pháo kích bừa băi hỏa tiễn 122 ly vào khu dân cư đông đúc, nhiều trái rớt xuống đường Võ Di Nguy, làm nhiều đồng bào thương vong. Nhiều trái khác rơi vào vòng thành Bộ TTM. Trên các đường phố dẫn tới Đại Lộ Chí Lăng, chiến xa Bắc Việt đă xuất hiện. Chiến xa VC bắn vào Bệnh Viện Vì Dân tại Ngă Tư Bảy Hiền nhưng bị Biệt Cách Dù, dùng súng đại bác M90 ly không giựt, chỉ trong vòng 15 phút, bắn cháy 6 chiếc T54, PT76 cùng với một khẩu pháo phòng không có bánh xe kéo, với nhiều đặc công bị chết, nằm rải rác từ Bảy Hiền tới Bộ TTM.

9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh ra lệnh cho Chiến Đoàn 3 Biệt Cách Dù, lúc đó cũng đang tử chiến với VC, phải ngưng đánh nhau, để chờ đầu hàng. Tuy nhiên nhiều toán không tuân lệnh, vẫn tiếp tục bắn vào các đoàn xe của VC, sau đó tự tử tập thể bằng lựu đạn vào giờ thứ 25. Riêng 2 Chiến Đoàn Biệt Cách Dù do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy, sáng ngày 30-4-1975, từ Suối Máu rút về Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa, khi nghe lệnh Dương Văn Minh bắt đầu hàng, nên cũng ră ngũ tại đâỵ

Khôi hài nhất là lúc mà người lính đang nối tiếp nhau ngă gục khắp các chiến trường, để bảo vệ cho thủ đô Sài Gòn và cuộc di tản bằng máy bay trực thăng của Mỹ, trên các mái nhà tại Cơ quan Dao và Tòa Đại Sứ, thì gần hết tướng lănh bỏ chạy trước. Còn Chính phủ Dương Văn Minh vừa mới nhậm chức, thì đă sai Nguyễn Văn Huyền vào Trại David, để thương thuyết với giặc xin đầu hàng, nhưng bị Võ Đông Giang làm nhục và bắt giam luôn bọn Việt Gian Chân Tín, Châu Tâm Luân và Trần Ngọc Liễng, từ chiều ngày 29-4-1975, khi vào làm sứ giả hòa bình.

Trong cuộc di tản ra khỏi nước, ngoài người Mỹ còn có đủ mọi thành phần lúc đó, từ quan tướng, trí thức, thầy cha, nhà báo, ca sĩ, mẹ mìn, đĩ điếm. Tất cả đạp lên đầu lẫn nhau để kiếm một chỗ chạy ra khỏi nước trốn cộng sản. Lúc đó không còn ai thèm nghỉ tới tư cách, thể diện, trinh tiết hay gì gì nửa. Kỳ cục nhất là những chuyên viên đối lâp, phản chiến, phá hoại và nói xấu chính phủ VNCH, giờ phút cuối lại là những thành phần hăng hái chạy trốn nhiều và trước hết. Ba mươi năm sau mới chợt hiểu, thì ra họ chỉ có thể chửi người quốc gia mà thôi. Với cộng sản, dù chỉ mới léng phéng mồm miệng, không bị roi đòn thoi đấm, hay ăn mă tấu, vào tù, bị cột đá neo sông, mới là chuyện lạ. Bởi vậy phải nhanh chân chạy trước ra ngoại quốc, để được tiếp tục đối lập với người Việt tị nạn, lần nữa làm tôi mọi cho cộng sản, dù rằng đă vì chúng mà phải một lần chuốc lấy sự nhục nhă năm nào.

Sài Gòn náo loạn khắp nơi, dân chúng ùn ùn kéo tới các ngân hàng rút tiền ký thác. Các Tòa Đại Sứ lần lượt đóng cửa, cũng như nhiều Hăng Máy bay ngưng hoạt động vì sợ họa lây. Hòn Ngọc Viễn Đông như đă chết vào những ngày gần cuối tháng 4-1975

Thế rồi 9 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, trong lúc mọi người đang mê tỉnh trong cơn hấp hối của đất nước, thì Dương Văn Minh vì quá nghe lời xúi dại của bọn thân Cộng như Ly Quý Chung, Nguyễn Hữu Thái, Nguyễn Hữu Hạnh, nên lợi dụng chức vụ tổng thống tổng tư lệnh quân đội, ép QLVNCH buông súng ră ngủ, trong khi tất cả còn đang tử chiến với giặc ngoài biên đ́nh.

Hỡi ơi VN chỉ vì một tên hám danh lừng khừng, mà cả một dân tộc chịu cảnh lầm than nô lệ từ ba chục năm qua và không biết tới bao giờ mới thoát khỏi xích xiềng tù ngục. Tất cả đều là ý trời, là số mệnh, là hậu quả tất yếu của một hậu phương miền Nam vô tình bạc nghĩa, chỉ biết hưởng thụ cá nhân, nên chẳng bao giờ chịu chia xẻ nỗi đau cùng cực của người lính, đă vì họ mà vong thân hay tàn phế nữa đờị

Nhưng rồi giặc chiếm được nước, tất cả dân lính cùng chịu cảnh tan tác phân ly không chừa hay bỏ sót một thành phần nào, kể cả những người một thời theo giặc. Lính bỏ súng vào tù, dân không cọn được lính bảo vệ, nên bị đe dọa mạng sống và mất hết tự do kể cả quyền sống làm người dân thường bên vệ đường.

Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt hồ hởi tiến vào Sài Gòn. Người người cùng cười dù đang thúi ruột, vì lần đầu tiên được chạm mặt với lính cụ Hồ, lù khù, ngô nghê. Nhiều chàng nàng cục mịch trong bộ đồ trận, với nón cối, dép râu, y chang những con dă nhân trong sở thú. Vậy mà suốt ba mưới năm qua, tháng tư nào cũng khoe là mùa xuân đại thắng, hay huênh hoang nhận đại là quân đội nhân dân anh hùng.

Phút cuối vẫn còn một số đơn vị Dù, TQLC, BDQ, Biệt Cách Dù..không thèm nghe lệnh của Dương Văn Minh. Họ chận đánh cộng sản Bắc Việt, trên các đường phố Hồng Thập Tự, Thị Nghè. Tại Đại lộ Thống Nhất, lính Dù và BDQ bắn M72 vào xe tăng VC khi chúng tiến vào chiếm Dinh Độc Lập.

Đúng 12 giờ 30 trưa ngày 30-4-1975, lá cờ vàng ba sọc đỏ của quốc dân VN treo trên nóc Dinh Tổng Thống VNCH bị giặc tước bỏ. Dương văn Minh và toàn bộ nội các có mặt tại dinh, bị bộ đội miền bắc, nhốt giữ tại chỗ, dù từ lớn tới nhỏ, đă sùi bọt mép nịnh bợ ca tụng chúng. Nhục nhă muôn đời là cả đám bị thu hình trước ống kính của hằng trăm nhà báo ngoại quốc.

- Cũng vào giờ phút mà Dương văn Minh bị còng tay gục đầu, thì tại Bộ Quốc Phòng, Trung Tá Nguyễn văn Cung, thuộc SD18BB khi nghe tin đầu hàng đă tự sát. Nhiều lính Dù cũng dùng súng M16 kết liễu đời trai trước Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị.

- Trong trại Hoàng Hoa Thám, một toán lính Nhảy Dù, nắm tay làm thành vòng tròn, rồi mở chốt lựu đạn để cùng chết tập thể. Một Đại Úy Cảnh Sát tự bắn vào đầu chết trước Quốc Hội. Trong khi đó các tướng lănh Phạm văn Phú, Nguyễn Khoa Nam , Lê văn Hưng, Lê nguyên Vỷ, Phạm Văn Hai.. cũng quyên sinh khi thành mất. Đó là những hình ảnh tuyệt vời, ngàn đời khắc sâu trong tâm khảm của người Việt và những trang sử bất diệt của dân tộc.

Sài Gòn đă chết từ đó, dân chúng thành đô dửng dưng trước chủ mới. Trong lúc đó, có nhiều con khỉ trong sở thú, vừa được sổ chuồng, cổ quàng khăn đỏ, tay phất cờ máu, trang bị súng đạn lượm được của lính bỏ bên vệ đường, chễm chệ trên các xe quân đội, tung tăng múa rối khắp đường phố, cổ võ, làm oai, hoan hô, đả đảo một cách lố bịch..

Trưa đó, 125 nhà báo ngoại quốc còn nán lại, đổ xô tới chiêm ngưỡng những anh hùng cách mạng, mà từ năm 1960-1975, họ đă không ngớt xưng tụng và tô son đánh phấn khắp thế giới không tiếc lời. Nhưng sự thật đă làm té ngửa các trái tim thú vật, khi biết được tất cả chỉ là sự tuyên truyền lừa bịp của miệng lưỡi cộng sản, mục đích để cho thế giới có thành kiến không tốt và ghét bỏ VNCH. Có như vậy họ mới bỉ ổi ca tụng một chiều cuộc xâm lăng miền Nam của Bắc Việt, mà không cần phải tìm hiểu sự thật.

Từ đó, thế giới mới bắt đầu tỉnh ngộ và chịu viết về một sự thật mà họ đă cố tình dấu diếm : " Không có ai là người Miền Nam , tất cả đều là bộ đội miền Bắc, trong tập đoàn đệ tam cộng sản quốc tế, do Liên Xô-Trung Cộng cầm đầu ". Riêng Norman Podhreta, khi về nước đă viết trên tờ Los Angeles times :

"Nam VN bị mất, không phải vì cấu xé nội bộ, cũng không do thiếu nhiệt thành quốc gia hay vì chính phủ không tranh thủ được lòng dân. Sự thật tất cả do sự xâm lăng của Bắc Việt, qua hậu thuận của khối cộng sản đệ tam quốc tế, trong đó có đảng cộng sản Hoa Kỳ ."

Còn nữ kư giả Ý từng ca tụng Hồ Chí Minh, tên Tiziano Tersani thì viết :
" Binh sĩ tấn công vào Sài Gòn đều là bộ đội Bắc Việt. Sự phân biệt rất dễ dàng nhờ hình vóc và tiếng nói, người miền bắc hoàn toàn khác lạ với VC miền nam."

Một nữ kư giả Pháp, Brigitte Friang thì mai mỉa hơn :

" Trưa 30-4-1975, bộ đội Bắc Việt vào Sai Gòn. Đây là một thành phố chết, chỉ có 125 nhà báo ngoại quốc và hơn một chục đứa con nít nam nữ, trương cờ máu đế chào đón chúng. Ba triệu dân miền Nam nhìn chúng bằng thái độ lănh đạm. Vậy mà Trần văn Trà, Nguyễn Thị Bình đi đâu cũng tuyên bố rằng, chính nhân dân miền nam đă tổng nổi dậy, để lật đổ chính phủ VNCH. "

Nhưng cay cú nhất, phải là lời viết của Jean Larteguy, một nhà báo Pháp từng cuồng nhiệt ca tụng Hồ Chí Minh và VC như thần thánh trong nhiều năm qua . Ông viết :

"Sài Gòn mất bởi đạo quân Bắc Việt. Nhìn đoàn quân chiến thắng đang hồ hởi trên những chiếc tăng T54 hay PT46, treo cờ máu, đâu có khác gì cảnh quân Sô Viết đàn áp, xâm lăng Hung Gia Lợi, Tiếp Khắc, Ba Lan tai Đông Âu năm nào ."

Ba mươi năm qua, hầu hết đồng bào VN trong cũng như ngoài nước tan nát cửa nhà sau cuộc đổi đời không bao giờ dám nghĩ là sẽ có. Nên cứ mỗi lần tháng tư quốc hận tới, cho dù ai chăng nửa, đại đa số người dân sống thầm lặng bên vê đường thời gian hay thiểu số dấn thân trên con đường đấu tranh quang phục đất nước, đều mang chung tâm trang bi thương, tức tưởi, ngậm ngùi.

Tất cả đều là sự thật vì mọi bí mật của cuộc chiến đă được các phe phái, chính người trong cuộc hay các sử gia tìm hiểu, như giáo sư Morris :

"Cộng sản Hà Nội đă thắng cuộc xâm lăng miền nam, nhờ tuyên truyền, đẻ và thổi phồng bịa đặt các huyền thoại chính trị mà hầu hết, đều là chuyện trên trời dưới biển. Có như vậy, VC mới dụ dỗ và phỉnh gạt được, nhiều trí thức khoa bảng nhà báo trong và ngoài nước. Nhờ thế suốt cuộc, chính thành phần này đă góp phần chiến thắng cho Hà Nội, không phải ở chiến trường, mà là tại Paris, Luân Đôn và Hoa Thịnh Đốn."

Ba mươi năm rồi, xin hăy trả lại cho người lính trận miền nam những gì họ đă mất từ lâu, do những kẻ cứ hay tự xưng mình là trí thức, đă cướp đoạt. Người lính VNCH không cần bất cứ ai phải vinh danh, vì chính cái phẩm cách tuyệt luân phi thường của lính, đă có một vị trí xứng đáng trong lòng dân tộc.

Bỗng ao ước sao cho đất nước sớm có tự do cuộc đời trở lại như thuở nào, để dân-lính lại thỏa tình cá nước, lính từ dân mà có và dân sống được nhờ sự bảo vệ thần thánh và chân thành của lính, điển hình như các cuộc di tản khỏi vùng chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, cuộc di tản tại Bình Thuận, Xuân Lộc và những ngày Sài Gòn hấp hối, cuối tháng 4-1975.

"Ta về cúi mặt đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đă vì ta nở
Thế giới vui vì mọi lẻ loi "
(Thơ Tô Thùy Yên)

Xóm Cồn
Mùa Quốc Hận 30-4-2005
HỒ ĐINH

No comments:

Blog Archive