hoanghaithuy
Người Hồi Giáo- Trung Đông – biểu tình ngày 14 January 2015 phản đối Tuần Báo Charlie Hebdo số ra sau cuộc thảm sát vẫn vẽ hình nhạo Giáo Chủ Mohammed trên bìa báo.Sáng ngày 7 January 2015, như mọi sáng, tôi trở dậy lúc 5 giờ. Nhin qua khung kính cửa sổ ra ngoài trời, tôi thấy tuyết trắng trên Rừng Phong. Lễ Christmas năm nay Virginia is for Lovers không có tuyết. Tuyết đến Virginia chậm mất 10 ngày.
Sáu giờ sáng, bên ly cà-phê, tôi ngồi trước máy TiVi. Tất cả các Đài TiVi Mỹ cùng loan tin chính trong ngày: bọn khủng bố – 3 tên – ập vào tòa soạn tuần báo Charlie Hebdo ở Paris, chúng dùng súng bắn chết 12 nhân viên, ký giả trong tòa soạn. chúng bắn 5 người bị thương nặng. Máy thu hình tự động gắn trên mái nhà tòa báo cho thấy cảnh bọn khủng bố bận y phục đen, bịt mặt, đi trên 2 xe ô tô, xe đậu ngay trước cửa tòa soạn. Chúng vào, nổ súng giết người, rút đi. Êm ru. Thấy có cảnh người trong tòa soạn chạy ra, bị thương, ngã trên đường, bị tên khủng bố đuổi theo, dí súng vào đầu, bắn chết.
Vụ giết người trong tòa báo Charlie Hebdo làm người thế giới chấn động. Trong nhiều năm qua ký giả, phóng viên nhà báo trên thế giới có nhiều người bị giết chết, nhưng đó đều là những vụ giết người đơn lẻ. Vụ thảm sát trong tòa soạn tuần báo Charlie Hebdo là vụ tàn sát ký gỉả lớn nhất, tàn bạo nhất trên thế giới kể từ ngày loài người có nhật báo, tuần báo.
Tuần báo Charlie Hebdo là báo châm biếm. Báo có nhiều bài, nhiều tranh vẽ đả kích những người Hồi Giáo cực đoan, và nhạo báng Giáo Chủ Mohammed của Hồi Giáo. Trong mấy năm qua tờ báo nhận được nhiều lời đe dọa tòa báo sẽ bị phá, nhân viên bị giết. Ngày Thứ Tư 7 Janvier 2015 vụ bắn giết xẩy ra.
Tôi nhớ lại những vụ ký giả Việt Nam bị bắn chết vì nghiệp vụ của họ. Đây là vụ đáng kể nhất:
Ký giả Từ Chung bị bắn (Bài của Thụy Giao)
Trưa ngày 31-12-1965, lái xe về đậu trước cửa nhà (số 59 đường Nguyễn Lâm), vừa bước xuống xe vòng ra sau để mở cốp xe lấy tờ báo và cây viết, Từ Chung, Tổng Thư Ký nhật báo Chính Luận, bị hai cán bộ khủng bố nội thành cộng sản, chở nhau trên một xe gắn máy, rút súng bắn năm phát liền vào lưng. Từ Chung gục chết trong tay chỉ có tờ báo và cây viết ngay trước mắt đứa con trai đầu lòng 12 tuổi.
Trong tập sách có tựa đề là “Trui Rèn Trong Lửa Ðỏ”, Đảng Cộng Sản đã kể lại thành tích dùng bạo lực giết hại những người dân vô tội của Miền Nam mà trong đó Từ Chung là một trường hợp. Thế nhưng Từ Chung là ai mà Việt Cộng phải ra tay giết hại như vậy?
Từ Chung tên thật là Vũ Nhất Huy (tên khai sinh của ông là Vũ Mạnh Sơn Nhất Huy, sau này có lẽ thấy cái tên dài lê thê quá, ông đã ra tòa xin rút ngắn lại là Vũ Nhất Huy), bị ám sát vào ngày 30-12-1965 lúc ông 41 tuổi, như vậy là nếu còn sống, năm nay ông 73 tuổi, sinh quán ở Sơn Tây, Bắc Việt Nam.
Từ Chung là anh cả trong một gia đình gồm bảy anh em trai, thế nhưng chỉ có hai người anh lớn trong nhà là Vũ Mạnh Sơn Nhất Huy và Vũ Mạnh Sơn Nhị Hoàng vào được miền Nam, năm người em phải ở lại miền Bắc với cộng sản sau năm 1954. Từ Chung mất đi để lại một vợ trẻ và bốn con thơ, cháu lớn nhất mới 12 tuổi.
Sau này em Vũ Trọng Hiệp, con trai lớn nhất của Từ Chung, sau khi tốt nghiệp sĩ quan Thủ Ðức đã không chịu ở lại tiểu khu, mà xin đi chiến đấu. Vũ Trọng Hiệp đã bỏ mình tại Ban Mê Thuật năm 1975, khi vừa đúng 22 tuổi.
Từ Chung đỗ tú tài tại Hà Nội, vào Nam, ông được học bổng du học tại Thụy Sĩ năm năm và đậu bằng Tiến Sĩ Kinh Tế tại Fribourg năm 1961. Về nước, ông được Linh Mục Cao Văn Luận, Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế mời giảng dạy tại trường Luật, và sau đó được mời làm ủy viên trong Hội Ðồng Cố Vấn Kinh Tế nhưng ông từ chối vì yêu nghề viết báo.
Từ Chung viết rất nhiều thể loại, từ điểm sách, văn chương, văn hóa đến chính trị, kinh tế v.v… nhưng nổi tiếng nhất là các bài xã luận về kinh tế. Từ Chung là người Việt Nam đầu tiên đã giản dị hóa môn học khô khan khó hiểu là kinh tế học, đưa môn học này về gần với quần chúng bình dân. Những bài xã luận của Từ Chung về kinh tế được độc giả thuộc mọi trình độ khác nhau, từ các ông giáo sư đại học, các chuyên viên kinh tế thượng thặng đến các cậu sinh viên, các bà nội trợ đều thấu hiểu tường tận những biến chuyển kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Những bài viết xã luận về kinh tế của ông thường được một số trí thức gọi đùa là “mục kinh tế chợ” đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi tầng lớp giai cấp và thế hệ độc giả khác nhau. Về dịch thuật, Từ Chung có dịch cuốn “Bí Danh” (Secret Name) của Lâm Ngữ Ðường.
Theo tường thuật của nhật báo Chính Luận, số ra ngày 1-1-1966, một ngày sau khi Từ Chung bị ám sát, thì vào khoảng 12:20 ngày 30-12-1965, Từ Chung từ tòa soạn báo Chính Luận số 15 đường Võ Tánh trở về nhà ở số 59 đường Nguyễn Lâm thì bị hai tên khủng bổ dùng súng lục hạ sát. Từ Chung đi trên chiếc xe hơi cũ kỹ. Khu phố nhà ông lúc ấy vắng người qua lại.
Ðau xót và thảm thương nhất là em Vũ Trọng Hiệp, 12 tuổi, học sinh đệ thất, người con trai đầu lòng của Từ Chung, khi thấy xe bố về liền chạy ra cửa đón bố. Nhưng em không ra được khỏi nhà vì cửa khóa, em Hiệp nhìn thấy từ đầu đến cuối cái chết của bố em.
Em Hiệp nức nở kể lại trong tiếng khóc:
“Cháu nghe thấy tiếng còi ô tô của bố cháu. Cháu chạy ra đứng phía trong cửa để chờ bố, cháu thấy bố cháu xuống xe rồi mở thùng xe đằng sau để lấy cái gì đó. Thế rồi có hai người đi gắn máy dừng lại, cháu nhìn rõ xe hiệu Goebel sơn màu xanh. Một người xuống xe tay cầm cặp da, mặc quần mầu xanh, áo xanh lạt có sọc, trạc độ 26 tuổi. Người ấy mở cặp da lấy ra một khẩu súng và tiến lại gần bố nhắm bắn luôn mấy phát liền. Bố cháu gục xuống."
Hiệp sau này lớn lên nhập ngũ Trường Sĩ Quan Thủ Ðức, em đã hy sinh vì nước tại mặt trận Ban Mê Thuột hồi năm 1975.
Thụy Giao
o O o
CTHĐ: Những năm cực thịnh của Nhật báo Ngôn Luận – 1960-1963 – Từ Chung và tôi thân nhau. Chúng tôi mày tao. Những năm xưa ấy tôi đến tòa soạn nhật báo Sàigònmới lúc 6 giờ sáng, Từ Chung đến tòa soạn nhật bào Ngôn Luận lúc 6 giờ sáng. Làm việc đến 9 giờ sáng tôi thường ra khỏi tòa soạn lúc 9 giờ để đi ăn sáng. Có sáng vào lúc 9 giờ tôi mang mấy trang tiểu thuyết sang tòa soạn Ngôn Luận. những sáng như thế tôi thường đi ăn sáng với Từ Chung. Thường là chúng tôi ăn phở 79, rồi ra Brodard uống cà phê. Chúng tôi trở lại tòa soạn lúc 11 giờ. Buổi chiều Từ Chung và tôi lại gập nhau ở Trụ Sở Quốc Hội. Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, nhật báo Sàigònmới, nhật báo Ngôn Luận cùng bị đóng cửa, Từ Chung làm tờ Chính Luận, đời tôi rơi vào mấy năm đen hơn mõm chó, Từ Chung và tôi xa nhau.
Sáu giờ sáng ngày Thứ Tư 15 Janvier 2015 người Paris xếp hàng trên vỉa hè băng giá chờ mua báo Charlie Hebdo. Ba triệu số Charlie Hebdo bán hết trên nước Pháp trong 2 giờ. Trong ảnh: Bìa báo Charlie Hebdo số ra ngày Thứ Tư 14 Janvier 2015.
Hôm nay, nhân vụ những ký giả Charlie Hebdo bị giết, tôi mời quí vị đọc chuyện những ký giả Việt Nam bị bắn chết vì nghề nghiệp của họ.
Tôi viết về những người sống bằng nghề ký giả ở Sài Gòn – một tên khác của nghề là phóng viên báo chí – và chết vì nghề ký giả ở Sài Gòn.
“Chết” trong bài này là “Chết vì việc làm báo, chết vì việc viết báo của mình, chết vì bị giết, không phải chết vì tuổi già hay chết vì bệnh.”
Nghề ký giả là nghề có nhiều người làm nghề bị giết chết nhất trong tất cả những nghề tự do. Bài này chỉ viết về những ký giả dân sự, không viết đến những phóng viên chiến trường – đa số là quân nhân – chết vì nghề trên chiến trường.
Ký giả Việt Nam thứ nhất bị bắn chết ở Sài Gòn là ông Nam Quốc Cang.
Ðây là bản tin về Nhà Báo Nam Quốc Cang trên Internet:
Nhà báo Nam Quốc Cang (1917-1950) tên thật Nguyễn Văn Sinh. Ông quê ở huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, ông vào Sài Gòn năm 1940. Sau năm 1945, ông viết bài cho báo Tin Ðiển với chủ trương chống thực dân Pháp, đặc biệt phụ trách mục “Trớ Trêu.” Mục này là loạt bài phiếm luận chính trị đầu tiên của làng báo Sài Gòn sau năm 1945. ông chế giễu những hoạt động của Thủ tướng Nam Kỳ Quốc Nguyễn Văn Thinh một cách sâu cay.
Nhà báo Nam Quốc Cang (1917-1950) tên thật Nguyễn Văn Sinh. Ông quê ở huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, ông vào Sài Gòn năm 1940. Sau năm 1945, ông viết bài cho báo Tin Ðiển với chủ trương chống thực dân Pháp, đặc biệt phụ trách mục “Trớ Trêu.” Mục này là loạt bài phiếm luận chính trị đầu tiên của làng báo Sài Gòn sau năm 1945. ông chế giễu những hoạt động của Thủ tướng Nam Kỳ Quốc Nguyễn Văn Thinh một cách sâu cay.
Ông lấy tên ba nhà báo Sài Gòn nổi tiếng thời ấy là các ông Nam Ðình Nguyễn Thành Phương, Trần Tấn Quốc, Lê Trung Cang làm bút hiệu của ông: Nam Quốc Cang.
Ngày 6 tháng 5 năm 1950, nhà báo Nam Quốc Cang cùng với nhà báo Ðinh Xuân Tiếu bị bắn chết trước tòa soạn báo Dân Quý ở đường Frère Louis, sau năm 1956 là đường Nguyễn Trãi. Ông mất năm ông 33 tuổi.
CTHÐ: Năm 1952 khi tôi vào làm phóng viên nhật báo Ánh Sáng, tôi được nghe các ông ký giả đàn anh kể cho biết:
Trong những năm sau năm 1963 tình hình chính trị Sài Gòn náo loạn. một số người đến đốt chỗ đậu xe hai bánh trước tòa soạn nhật báo Sống, đường Gia Long.
Cùng bị bắn chết với ông Nam Quốc Cang là ông Ðinh Xuân Tiếu và ông Lư Khê. Ông Lư Khê là chủ nhiệm nhật báo Ánh Sáng. Ông Lư Khê chết, chính quyền cho bà vợ ông Lư Khê làm chủ nhiệm nhật báo Ánh Sáng. Bà tên là Nguyễn Ngọc Diêu. 60 năm qua tôi vẫn nhớ tên bà. Năm 1952 anh Thanh Sanh là chủ bút báo Ánh Sáng, anh Hải Âu phụ tá.. Bà chủ nhiệm mỗi tháng chỉ ghé qua toà báo một, hai lần.
Tôi nghe các ông nhà báo nói kẻ đến bắn ông Nam Quốc Cang là Cò Ðình, nhân viên Ban PJM: Police Judiciaire Mobile. PJM tên Việt là ban Hình Cảnh Lưu Ðộng, một ban đặc biệt của Sureté Pháp. Ban PJM có nhiều quyền hạn thời ấy. Nhân viên Ban này có quyền đi bắt những kẻ phạm tội trên khắp xứ Nam Kỳ.
Khi bắt được một vụ cướp lớn, hay một vụ giết người, Ban PJM thường mở cuộc hội báo để loan báo thành tích. Người chủ tọa những cuộc hội báo PJM này là Cò Nuttini, một ông Tây Lai gốc Ý. Trong một cuộc hội báo PJM ông ký giả đàn anh ngồi cạnh tôi chỉ cho tôi thấy một người đàn ông trạc 40 tuổi, cao lớn, ông ký giả rỉ tai tôi:
“Cò Ðình, người bắn Nam Quốc Cang đấy.”
Sau năm 1946 an ninh trở lại Sài Gòn. Trong làng báo, làng văn Sài Gòn có tình trạng nhiều báo, nhiều nhà viết tiểu thuyết gần như công khai ca tụng những người Việt kháng chiến chống Pháp. Ký giả Nam Quốc Cang viết nhiều bài đả kích Thực Dân Pháp và việc trở lại làm chủ Sài Gòn của Thực Dân Pháp. Surete Pháp bắt giam ông Nam Quốc Cang nhưng những năm 1950 có nhiều người Pháp trong chính giới phản đối việc quân viễn chinh Pháp tái chiếm Ðông Dương. Ký giả Nam Quốc Cang được những ông Tây phản chiến ủng hộ, Sureté Pháp phải trả tự do cho ký giả Nam Quốc Cang. Họ cho nhân viên của họ là Cò Ðình đi ám sát ký giả Nam Quốc Cang.
Ba ông nhà báo Nam Quốc Cang, Ðinh Xuân Tiếu, Lư Khê sáng hôm ấy đang ngồi uống cà phê ở một quán cóc trên đường Frère Louis, Cò Ðình tới bắn chết cả ba ông. Hai ông Ðinh Xuân Tiếu, Lư Khê bị chết oan.
Ký giả sinh nghề, tử nghiệp thứ hai bị giết ở giữa thành phố Sài Gòn là ký giả người Pháp: ông De Lachevrotiere. Ông này là một ông Tây Thực Dân – Francais Coloniale – chính cống Bà Lang Trọc. Ông làm ký giả ở Sài Gòn từ năm 1920. Tiểu sử của ông ghi chuyện ông từng bút chiến với ông André Malraux Khoảng năm 1925, ông André Malraux, 21 tuổi mới cưới vợ. Ông bà đi du lịch đến Ðông Dương. Khi đi thăm Angkor Vat trở về Sài Gòn, ông bà bị nhà cầm quyền Pháp khám xét hành lý, tịch thu một số tượng đá Angkor Vat. Ông Malraux không bị án lấy trộm cổ vật, ông chỉ bị phạt tiền. Luật cấm du khách không được lấy, kể cả mua, những cổ vật Angkor Vat.
Buổi trưa ngày Janvier 1951 ký giả De Lachevrotiere ngồi trên một xe hơi bỏ mui, có tài xế lái, chạy trên đường Richaud – sau năm 1956 là đường Phan Ðình Puùng –Tin AFP tường thuật:
Một xe Jeep mang bảng số vàng ngoại giao đoàn trờ tới. Một người trên xe Jeep ném hai tạc đạn vào xe ông De Lachevrotiere. Ông ký giả cầm một tạc đạn định ném lại, tạc đạn nổ. Ông chết trong xe, người tài xế bị thương nặng nhưng thoát chết.
Những ngày như lá, tháng như mây, Làng báo Sài Gòn yên tĩnh trong 15 năm. Ngày 16 Tháng 4, 1966 trong một buổi sáng 2 ký giả bị bắn trong thành phố. Lúc 8 giờ sáng, ông Chu Tử Chu Văn Bình vào xe hơi của ông trước cửa nhà riêng, đường Trương Tấu Bửu, Phú Nhuận, để đến tòa báo, Kẻ sát nhân rình sẵn ở cửa nhà, bắn ông 4 phát đạn, một viên trúng gáy ông, đạn trổ ra miệng, nhưng ông không chết.
Tài liệu về Nhà báo Chu Tử trên Wipekeda:
Chu Tử là bút hiệu của Chu Văn Bình (1917-1975), một nhà văn, nhà báo người Việt. Ông được biết đến là chủ nhiệm nhật báo Sống và là tác giả những cuốn tiểu thuyết Yêu , Ghen.
Ông một thời dạy học ở Trường tư thục Phùng Hưng ở Hải Phòng trước năm 1954, sau làm hiệu trưởng Trường trung tiểu học Lê Văn Trung ở Tây Ninh.
Sang thập niên 1960 ông mở nhật báo Sống ở Sài Gòn. Mục “Ao Thả Vịt”, “Thơ Ðen”, và trang Nhạc Trẻ báo Sống được độc giả hâm mộ. Những cây viết cộng tác có Tú Kếu, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng.
Vì chính kiến, tòa báo bị Lực lượng Tranh thủ Cách mạng của phe Phật giáo cực đoan đốt phá năm 1966. Cũng vào thời điểm đó ông bị mưu sát gần nhà, bị trúng đạn nhưng thoát chết. Cuộc ám sát ông do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam thực hiện. Cuối thập niên 1960 báo Sống bị thu hồi giấy phép vì chỉ trích việc chính phủ cho Quân đội Hoa Kỳ toàn quyền sử dụng căn cứ Cam Ranh. Vào thập niên 1970 ông đứng chủ biên báo Sóng Thần nhưng sau rút lui.
Vào ngày 30 Tháng Tư, 1975 trên đường thoát khỏi Việt Nam trên con tàu Việt Nam Thương Tín, tàu trúng đạn súng B-40 VC khi qua cửa Cần Giờ. Ông Chu Tử trúng đạn chết, ông được thủy táng ngay cửa biển.
o O o
Cùng ngày 16 Tháng 4, 1966, lúc 12 giờ trưa. Ký giả Từ Chung Vũ Nhất Huy, Tổng Thư Ký Nhật báo Chính Luận, từ toà soạn về nhà riêng của ông trong Cư Xá Nguyễn Trị Phương. Ông vừa ra khỏi xe trước nhà thì bị kẻ sát nhân bắn ông. Ông trúng đạn vào lưng, ngã xuống, chết ngay bên xe hơi.
Wipikeda trên Net không có trang nào về Ký Giả Từ Chung Vũ Nhất Huy. Internet cũng không có cái ảnh nào của Ký giả Từ Chung.
Khoảng ba, bốn ngày sau Khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị hạ sát, ba ông Ký Giả Chu Tử – Hiếu Chân – Từ Chung đồng ký một bản gọi là “ Hiệu Triệu” như sau:
HIỆU TRIỆU
Mang danh là những người cầm bút chiến đấu cho Tự Do, Dân Chủ và giải phóng con người, vậy mà trong thời gian qua, vì cơm áo, vì khiếp nhược đớn hèn, chúng ta đã nhắm mắt ăn dơ, đánh đĩ tâm hồn, phản bội Sự Thật, phản bội Dân Tộc, cam tâm làm gia nô cho bè lũ họ Ngô. Dù chúng ta có viện bất cứ lý do nào để bào chữa, chúng ta không thể chối cãi tội lỗi của chúng ta đối với đồng bào, với lịch sử.
Quân Ðội đã đứng lên, làm nhiệm vụ của mình. Cơ hội duy nhất để chúng ta thoát khỏi cảnh huống bồi bút, “phi cầm, phi thú’, cơ hội duy nhất để chúng ta trở lại làm người, đã tới…. Nếu sự tự thiêu của bảy tu sĩ — một hy sinh bi hùng nhất trong lịch sử tôn giáo và nhân loại – chưa làm chúng ta giác ngộ, thì quả chúng ta đã hết là người, không còn xứng đáng gặp gỡ vận hội của chúng ta nữa.
Cuộc cách mạng chỉ mới bắt đầu. Xương máu của quân đội, của đồng bào không thể bị bọn đầu cơ chính trị lợi dụng một lần nữa.
Hơn lúc nào hết, chúng ta phải “gạn đục, khơi trong”, đem hết tâm hồn, năng lực ra phụng sự cho chính nghĩa.
Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các bạn nghệ sĩ, bằng máu, nước mắt, mồ hôi, đem ngòi bút viết lại thiên lịch sử của dân tộc, mà trong chín năm qua, bè lũ họ Ngô đã làm hoen ố.”
Ðại diện cho các nhà văn, nhà báo chiến đấu cho Tự Do, Dân Chủ.
CHU TỬ – HIẾU CHÂN – TỪ CHUNG
(Ðăng trên Tạp chí Bách Khoa, số 165 ngày 15-11-1963)
CTHÐ: Bản “Hiệu Triệu” được đăng trên nhật báo Ngôn Luận. Vài ngày sau ông Hiếu Chân có lời “cải chính” trên nhiều nhật báo: ông không ký tên trong bản “Hiệu Triệu” ấy. Từ Chung nói với tôi:
“Tao đọc bản ấy cho Hiếu Chân nghe qua tê-lê-phôn. Ông ấy bằng lòng ký tên.”
Từ đó ông Chu Tử đoạn giao với ông Hiếu Chân.
Riêng tôi – CTHÐ – tôi được biết bốn tiếng “phi cầm, phi thú” từ bản Hiệu Triệu vội vàng và rộn ràng rổn rảng những lời đao to, búa lớn ấy. Tôi nghĩ tác giả “Hiệu Triệu Phi Cầm Phi Thú ” là ông Chu Tử.
Ba ông ký giả “Hiệu Triệu” đều bị chết vì Cộng Sản. Ông Hiếu Chân chết trong Nhà Tù Chí Hòa năm 1987. Ông Nhà Văn Dương Hùng Cường, bút danh Dê Húc Càn, cùng bị bắt với ông Hiếu Chân, chết cùng trong năm 1987 trong một sà-lim ở Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu. Hai ông chết vì những bài báo hai ông viết, gửi ra nước ngoài.
Ký giả người Pháp thứ hai chết vì nghề ở Việt Nam là Francois Sully. Năm 1945 khi mới 17 tuổi, Francois Sully cầm súng đi diệt quân Ðức để giải phóng Paris. 1946 Sully gia nhập Quân Viễn Chinh Pháp sang chiếm lại Ðông Dương. Từ 1946 khi giải ngũ và trở thành phóng viên nhà báo, Francois Sully sống ở Sài Gòn. Ông nói thạo 4 thứ tiếng Pháp, Anh. Việt và Lào. Theo tôi – CTHÐ – Francois Sully là ký giả ngoại quốc sáng giá nhất ở Việt Nam. Năm 1962 vì những bài báo viết về bà Ngô Ðình Nhu, ký giả Francois Sully bị chính phủ VNCH trục xuất. Ông sang Mỹ học một năm ở Ðại Học Harvard. Trở về Sài Gòn năm 1964 ông làm Trưởng Phòng Newsweek Saigon cho đến ngày ông tử nạn.
Tháng Hai 1971 ký giả Francois Sully đi theo Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí trên phi cơ trực thăng. Giữa trời Tây Ninh, trực thăng bốc cháy. Ông cùng chết với Tướng Ðỗ Cao Trí. Wipekeda ghi ông được an táng trong Nghiã Trang Mạc Ðĩnh Chi. Người ký giả chết vì nghề, chết với nghề ấy không vợ con. Khoản tiền bảo hiểm nhân mạng của ông – khoảng 15 triệu đồng VN – được tặng cho những hội từ thiện Việt Nam.
Francois Sully là người sáng chế ra kiểu áo kaki ba túi bỏ ngoài quần, bộ đồ này về sau được các ông thợ may Sài Gòn gọi là “Áo Ký Giả.”
Người ký giả Việt chết vì nghề ở Sài Gòn cuối cùng – trước năm 1975 – là anh Vân Sơn Phan Mỹ Trúc.
Năm 1960 Vân Sơn Phan Mỹ Trúc phụ trách tuần báo Phụ Nữ Ngày Mai. Chủ nhiệm tuần báo này là anh Nguyễn Ðức Khiết, người con trai thứ sáu của bà Bút Trà. Vân Sơn Phan Mỹ Trúc là ký giả duy nhất của Sàigònmới-Phụ Nữ Ngày Mai sau ngày cơ sở tan hàng, trở thành chủ nhiện nhật báo. Khoảng năm 1970 Vân Sơn làm chủ nhiệm nhật báo Ðông Phương. Báo bán chạy.
Tôi không rõ vì nguyên nhân nào – chỉ biết Vân Sơn bị giết vì những bài đăng trên tờ báo của anh – vào năm 1972, hay 1973, tòa soạn báo Ðông Phương đặt trong nhà in Nguyễn Bá Tòng. Buổi trưa chủ nhiệm Vân Sơn cùng hai ông bạn ký giả Hoài Khâm, Cung Mạnh Ðạt sang tiệm cơm Tầu trước nhà in ăn cơm. Anh Hoài Khâm, anh Cung Mạnh Ðạt là hai ký giả báo Sàigònmới bạn của anh Vân Sơn. Hai ký giả này là nhân viên tòa soạn nhật báo Ðông Phương.
Nghe kể: ba ký giả đang ngồi ăn, tên sát nhân đến tận bàn, ghé nòng súng một khẩu súng lục chuyên dùng để ám sát, viên đạn nhỏ như đầu chiếc đũa, vào mang tai ký giả Vân Sơn, nổ một phát. Viên đạn ghim vào óc Vân Sơn, anh ngã chết tại chỗ. Tên sát nhân chạy mất. Vụ giết người bị cho chìm xuồng.
Tất cả những vụ ký giả nhà báo bị bắn chết trong thủ đô Sài Gòn – từ ký giả Nam Quốc Cang, qua 2 ký giả Pháp De Lachevrotière, Framcois Sully, đến ông Chủ Nhiệm Báo Sống Chu Tử, ông Tổng Thư Ký Tòa Soạn Nhật Báo Chính Luận Từ Chung, ông Chủ Nhiện Nhật Báo Đông Phương Vân Sơn Phan Mỹ Trúc đều bị cho chìm suồng: không tìm ra thủ phạm. Theo tôi không chắc bọn Việt Cộng đã bắn hai ông Chu Tử, Từ Chung.
Khoảng năm 1970 tôi hỏi ông Chu Tử:
“Cho đến bây giờ anh có biết ai là người bắn anh không?”
Ông Chu Tử trả lời:
“Cho đến nay tôi vẫn chưa biết ai bắn tôi.”
“Cho đến bây giờ anh có biết ai là người bắn anh không?”
Ông Chu Tử trả lời:
“Cho đến nay tôi vẫn chưa biết ai bắn tôi.”
Tôi hỏi ông Chu Tử câu hỏi trên vì những năm 1970 có tin đồn CIA thực hiện những vụ ám sát người Việt Quốc Gia để đổ lỗi cho Việt Cộng. Có một ông Đại Tá Quân Mỹ giải ngũ những năm 1970 kiện chính phủ Mỹ về việc chính phủ Mỹ đã cho phép nhân viên CIA dùng các ông vào việc giết người Việt dân sự để đổ tội cho Việt Cộng. Việc kiện cáo này sau đó được cho chìm xuồng.
Dòng thời gian dài một ánh bay,
Những ngày như lá, tháng như mây.
Tất cả những người được kể trong bài này đều là ký giả đã chết. Tất cả chết vì nghề ký giả của họ. Tất cả đều chết trong nước.
Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Ðất Trích, Ngày 11 Tháng Bẩy, 2013.
Viết thêm Ngày 15 January 2015.
No comments:
Post a Comment