Cánh tay nối dài - Đặng Quang Chính -
Người Việt tỵ nạn ở nước ngoài, ít ra cũng gần 20 năm (tính từ năm đóng cửa đảo với chương trình CPA - 1989). Họ phải lo đời sống cá nhân, và dù có được trợ cấp xã hội, nguồn lợi tức đó không đủ để trang trải; nhất là những người còn cưu mang gia đình còn sót lại tại quê nhà. Dần dần, họ quên đi một đe dọa sẽ xảy đến.
Trước đây, có thể thân nhân họ đã chạy nạn CS từ Bắc vào Nam...rồi từ Nam ra nước ngoài...và bây giờ chính họ sẽ nếm mùi vị tương tự; nhưng, nếu chuyện đó xảy ra, lần này, chắc chắn họ không còn đất nước nào khác để đi tỵ nạn.
Xem đến đây, đôi người cho rằng kiểu viết này như là một cảnh báo quá đáng.
Ừ!...có thể, biết đâu cũng giống như trước đây nhiều năm, cựu phó Tổng thống Hoa Kỳ, ông Gore, loan báo về sự thay đổi nhiệt độ của quả địa cầu. Lúc đó, có ít người tin. Kẻ phản bác cũng không ít, kể cả giới chuyên môn. Nay, sự thật đã rõ hơn trước...và mức độ nguy kịch còn hơn trước nhiều. Mực nước biển dâng lên, trên thực tế, gấp ba lần dự đoán trước kia.
Nằm trong sự nguy kịch nói trên, giới chuyên gia cho rằng, đồng bằng sông Cửu Long sẽ mất hàng trăm ngàn mẫu vì bị nước biển mặn xâm chiếm. Năm 2030, từ nay đến ngày đó, có xa lắm không?!... Có giống như việc miền Nam bị bức tử vào năm 1975 không?. Từ đó đến nay cũng quá 30 năm rồi..mà thời gian như cái bóng của buổi chiều, vụt qua cửa sổ.
Hơn chục năm trước, khi người Việt mới được phép về thăm quê hương, bên Mỹ đã xảy ra một vụ giết người. Nạn nhân là người cho rằng tình hình quê nhà, qua sự kiện đó, đã khá hơn. Người bắn, thành viên của một tổ chức chống Cộng, cố tình làm việc này, vì cho rằng nạn nhân nói điều đó có tính thân Cộng. Nếu Trần văn bé Tư, người bắn nạn nhân suýt chết, còn muốn làm việc đó vào lúc này, chắc anh sẽ làm không xuể; bởi hằng năm có đến ít ra cả 100.000 người về nước !!!....
Sau khi người Việt về, các đợt văn nghệ sĩ ở VN ra nước ngoài trình diễn bị chống đối, tẩy chay dữ dội. Nhưng, bây giờ ca sĩ Đàm vĩnh Hưng, nghe nói là thành viên trong Hội văn nghệ trung ương VN, đi diễn tại nước ngoài...gần như đi chợ. Ngoài ra, còn có tin, bọn thân quen với ca sĩ này đã hành hung những người đứng ra kêu gọi đồng bào tẩy chay buổi trình diễn của nhóm ĐV.Hưng.
Theo cách nhận định trên, rõ là "cánh tay" của nhà nước CS tại VN đã được nối dài qua mấy người ca sĩ nhà nước...và qua bọn côn đồ tại hải ngoại. Bất cứ ai nghe qua sự việc trên, cũng cảm thấy việc đó giống na ná như vụ đuổi tăng sĩ Bát nhã ra khỏi chùa tại VN. Chính quyền CS không cấm đoán gì về tín ngưỡng cả. Việc đó xảy ra do người dân phẫn uất, hay do nội bộ lủng củng sao đó mà ra thôi !...
Cho đến một thời điểm nào đó, trong những buổi đại nhạc hội tại nước ngoài, trước khi trình diễn âm nhạc, lại có chào cờ quốc kỳ với hình tượng là nền Đỏ, sao vàng....thì đó là ngày đồng bằng Cửu Long đã bị nước biển lấn chiếm. Lúc đó, hết thuốc cứu!!!...
Chuyện này có thể xảy ra không?.
Chuyện này sẽ không có gì ngăn trở được. Nhất là khi "cánh tay" của đảng CS, sẽ được nối dài, không qua bọn côn đồ, bọn ca sĩ tuyên vận..mà qua những tổ chức đã từng mang tiếng chống Cộng trước đây!!!....nay, vì nhiều lý do, đã tự biến mình thành ”tay sai” của đảng CS.
Đặng quang Chính
15.12.2009
www.tinparis.net
Thursday, December 17, 2009
Quyên Góp Cho Việt Nam và Luật Hoa Kỳ
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Người Việt ở Hoa Kỳ, dù ở cộng đồng lớn hay nhỏ, rất chịu khó đóng góp cho những công tác từ thiện ở Việt Nam. Ngay cả trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, người mình vẫn tiếp tục hưởng ứng các chương trình quyên góp cho đồng bào ở trong nước. Điều này nói lên tình của người Việt tị nạn và di dân.
Đã nói đến tình thì cũng phải nói đến lý.
Về lý, trong một bài trước tôi nêu lên sự thiếu quân bình trong vấn đề quyên góp: Hầu hết các đóng góp của người ở hải ngoại đều dồn cho Việt Nam; rất ít ai quan tâm đến nhu cầu của chính cộng đồng Việt ở Hoa Kỳ. Vì sự chểnh mảng này, cộng đồng của chúng ta kém phát triển so với các cộng đồng bạn, kể cả những cộng đồng nhỏ bé hơn nhiều.
Ở đây tôi muốn nêu lên một khía cạnh về lý khác của sự quyên góp cho các chương trình ở Việt Nam: tính cách hợp pháp của những quyên góp ấy.
Theo luật Hoa Kỳ, mọi thu nhập đều phải đóng thuế, ngoại trừ thu nhập của các tổ chức được quy chế miễn thuế của chính phủ liên bang. Vì miễn thuế có thể hiểu là được bao cấp bởi tiền thuế của quần chúng, cho nên các tổ chức được hưởng quy chế này phải tuân thủ các đòi hỏi rất chặt chẽ của luật pháp.
Một đòi hỏi căn bản là sự minh bạch về tài chánh, bao gồm sự minh bạch về thu, về quản lý, và về chi tiêu.
Về chi tiêu, sự minh bạch đòi hỏi mọi khoản chi đều phải truy cứu được, nghĩa là nhất nhất đồng xu nào chi ra cũng phải có biên nhận và được ghi vào sổ sách. Đối vơi tiền quyên góp ở Hoa Kỳ nhưng chi ở Việt Nam thì sự minh bạch không dễ thực hiện. Phần lớn người ở Việt Nam không xem sự truy cứu bằng giấy tờ là quan trọng và dễ bị tự ái khi được yêu cầu minh bạch.
Đó là chưa kể tình trạng tham nhũng tràn lan khắp xã hội. Nhiều khi muốn đưa phẩm vật hay chuyển tiền cho dân, tổ chức từ thiện phải “trà nước” cho cán bộ, công an. Các khoản tiền “trà nước” này chắc chắn không thể nào truy cứu được vì nó bất hợp pháp.
Có tâm lý cho rằng thôi thì đành du di về nguyên tắc minh bạch để được việc, nhất là khi việc đó là việc nhân đạo; và dù biết du di như vậy là vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, nhưng khéo che đậy thì đâu ai biết.
Hoa Kỳ, một đất nước non trẻ, đã phát triển nhanh chóng chính nhờ vào ý thức tôn trọng luật pháp nơi người dân. Ý thức ấy vừa thể hiện qua tinh thần tự giác của từng cá nhân vừa được thiết kế ngay vào các điều khoản luật chặt chẽ áp dụng đồng đều trong xã hội. Chính tinh thần thượng tôn luật pháp này đã giúp phát triển niềm tin và phát huy những quy ước hành sử chung trong xã hội, hai yếu tố căn bản của xã hội dân sự. Nhờ có một xã hội dân sự vững mạnh, Hoa Kỳ đã phát triển rất nhanh trong một thời gian tương đối ngắn kể từ khi lập quốc.
Còn Việt Nam có gần năm ngàn năm văn hiến nhưng lại rất chậm phát triển và đang có chiều hướng đi lùi vì luật pháp lỏng lẻo; từ trên xuống dưới, từ lớn đến nhỏ đều sinh hoạt mờ ảo, tuỳ tiện và có ít nhiều gian dối. Trong xã hội như vậy, người ta chẳng ai muốn góp vào mà chỉ chực lấy ra, chỉ chực bòn rút của xã hội. Xã hội ngày càng hỗn độn và xơ xác.
Do đó những ai đứng ra quyên góp cho các chưong trình từ thiện ở Việt Nam cần cảnh giác để không nhượng bộ về nguyên tắc minh bạch và không vi phạm luật pháp Hoa Kỳ. Chính những người đóng góp phải đòi hỏi sự minh bạch tuyệt đối trong mọi khoản chi tiêu và tuyệt nhiên không thoả hiệp với nạn tham nhũng ở Việt Nam. Có vậy, việc làm từ thiện của chúng ta mới không di hại lâu dài cho đất nước Việt Nam. Có vậy, chúng ta mới tránh không để những con sâu ở xã hội Việt Nam đục khoét nền móng pháp trị của Hoa Kỳ.
www.tapchithegioimoi.com
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Người Việt ở Hoa Kỳ, dù ở cộng đồng lớn hay nhỏ, rất chịu khó đóng góp cho những công tác từ thiện ở Việt Nam. Ngay cả trong tình hình kinh tế khó khăn hiện nay, người mình vẫn tiếp tục hưởng ứng các chương trình quyên góp cho đồng bào ở trong nước. Điều này nói lên tình của người Việt tị nạn và di dân.
Đã nói đến tình thì cũng phải nói đến lý.
Về lý, trong một bài trước tôi nêu lên sự thiếu quân bình trong vấn đề quyên góp: Hầu hết các đóng góp của người ở hải ngoại đều dồn cho Việt Nam; rất ít ai quan tâm đến nhu cầu của chính cộng đồng Việt ở Hoa Kỳ. Vì sự chểnh mảng này, cộng đồng của chúng ta kém phát triển so với các cộng đồng bạn, kể cả những cộng đồng nhỏ bé hơn nhiều.
Ở đây tôi muốn nêu lên một khía cạnh về lý khác của sự quyên góp cho các chương trình ở Việt Nam: tính cách hợp pháp của những quyên góp ấy.
Theo luật Hoa Kỳ, mọi thu nhập đều phải đóng thuế, ngoại trừ thu nhập của các tổ chức được quy chế miễn thuế của chính phủ liên bang. Vì miễn thuế có thể hiểu là được bao cấp bởi tiền thuế của quần chúng, cho nên các tổ chức được hưởng quy chế này phải tuân thủ các đòi hỏi rất chặt chẽ của luật pháp.
Một đòi hỏi căn bản là sự minh bạch về tài chánh, bao gồm sự minh bạch về thu, về quản lý, và về chi tiêu.
Về chi tiêu, sự minh bạch đòi hỏi mọi khoản chi đều phải truy cứu được, nghĩa là nhất nhất đồng xu nào chi ra cũng phải có biên nhận và được ghi vào sổ sách. Đối vơi tiền quyên góp ở Hoa Kỳ nhưng chi ở Việt Nam thì sự minh bạch không dễ thực hiện. Phần lớn người ở Việt Nam không xem sự truy cứu bằng giấy tờ là quan trọng và dễ bị tự ái khi được yêu cầu minh bạch.
Đó là chưa kể tình trạng tham nhũng tràn lan khắp xã hội. Nhiều khi muốn đưa phẩm vật hay chuyển tiền cho dân, tổ chức từ thiện phải “trà nước” cho cán bộ, công an. Các khoản tiền “trà nước” này chắc chắn không thể nào truy cứu được vì nó bất hợp pháp.
Có tâm lý cho rằng thôi thì đành du di về nguyên tắc minh bạch để được việc, nhất là khi việc đó là việc nhân đạo; và dù biết du di như vậy là vi phạm luật pháp Hoa Kỳ, nhưng khéo che đậy thì đâu ai biết.
Hoa Kỳ, một đất nước non trẻ, đã phát triển nhanh chóng chính nhờ vào ý thức tôn trọng luật pháp nơi người dân. Ý thức ấy vừa thể hiện qua tinh thần tự giác của từng cá nhân vừa được thiết kế ngay vào các điều khoản luật chặt chẽ áp dụng đồng đều trong xã hội. Chính tinh thần thượng tôn luật pháp này đã giúp phát triển niềm tin và phát huy những quy ước hành sử chung trong xã hội, hai yếu tố căn bản của xã hội dân sự. Nhờ có một xã hội dân sự vững mạnh, Hoa Kỳ đã phát triển rất nhanh trong một thời gian tương đối ngắn kể từ khi lập quốc.
Còn Việt Nam có gần năm ngàn năm văn hiến nhưng lại rất chậm phát triển và đang có chiều hướng đi lùi vì luật pháp lỏng lẻo; từ trên xuống dưới, từ lớn đến nhỏ đều sinh hoạt mờ ảo, tuỳ tiện và có ít nhiều gian dối. Trong xã hội như vậy, người ta chẳng ai muốn góp vào mà chỉ chực lấy ra, chỉ chực bòn rút của xã hội. Xã hội ngày càng hỗn độn và xơ xác.
Do đó những ai đứng ra quyên góp cho các chưong trình từ thiện ở Việt Nam cần cảnh giác để không nhượng bộ về nguyên tắc minh bạch và không vi phạm luật pháp Hoa Kỳ. Chính những người đóng góp phải đòi hỏi sự minh bạch tuyệt đối trong mọi khoản chi tiêu và tuyệt nhiên không thoả hiệp với nạn tham nhũng ở Việt Nam. Có vậy, việc làm từ thiện của chúng ta mới không di hại lâu dài cho đất nước Việt Nam. Có vậy, chúng ta mới tránh không để những con sâu ở xã hội Việt Nam đục khoét nền móng pháp trị của Hoa Kỳ.
www.tapchithegioimoi.com
Sunday, December 13, 2009
HẢI NGOẠI VỚI VIỆC LÀM TỪ THIỆN - Hữu-Tâm -
Độ bảy tám năm trở lại đây, câu chuyện từ thiện từ hải ngoại về VN nhằm cứu giúp bà con ta ở quê nhà đang gặp cảnh khốn khó, đói nghèo tàn tật v.v... một ngày một rộ lên. Đặc biệt là kể từ khi có "Quỷ Hỗ Trợ Cộng Đồng" rồi tiếp theo "Nghị Quyết 36" của VC tung ra hải ngoại, thì các tổ chức từ thiện bịp bợm bỗng nhiên mọc lên như nấm.
Ở đâu cũng nghe tới từ thiện. Từ các tổ chức nhân danh tôn giáo, thánh đường, nhà thờ, chùa chiền, rồi đến các tổ chức tư nhân; ở đây tổ chức dạ tiệc gây quỹ cứu mù, cứu đói, giúp trẻ mồ côi khuyết tật, cứu Làng Nổi bán máu. Ở đàng kia tổ chức đại nhạc hội cứu thương phế binh, giúp nạn nhân bão lụt, giúp nạn nhân phong cùi, cứu người già neo đơn v.v... Có nhóm lại còn tổ chức cứu đồng bào Tết Mậu Thân. Cứ cái đà này có lẽ nay mai lại có nhóm đòi gây quỹ giúp các ma tăng bỏ chùa đi... cưới vợ nữa !?
Dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại ở khắp nơi, nhứt là các cơ quan truyền thông báo chí NVQG đã đặt thành vấn đề thật quan trọng cần phải được nêu lên để làm sáng tỏ một sự thật rõ ràng cái bí mật ở đàng sau bức màn "từ thiện". Bao nhiêu là bài bình luận của những tờ báo tên tuổi với những cây viết có giá trị đã đưa đến một kết luận thật dứt khoát :
*Hầu hết các tổ chức từ thiện do người Việt hải ngoại chủ trương đều là thi hành NQ-36 VC lừa bịp mị dân, lợi dụng lòng từ tâm của mọi người để moi tiền bỏ túi hay ăn chia với VC. (Đỗ Vẫn Trọn gây quỹ cứu Mù; Vũ Thành An gây quỹ Từ Thiện Teresa; Cô Tim, Ngôi nhà May mắn; Mục sư Nguyễn Xuân Bảo cứu đói; Trúc Giang, nhóm Sưỡi Ấm; Quốc Nam cứu Làng Nổi bán máu; Võ Thành Đông, cứu trợ thương phế binh v.v...).
*Điều đơn giản rất dễ hiểu là vì chánh sách bất di bất dịch của VC là tuyệt đối cấm không cho bất cứ tổ chức từ thiện nào, kể cả của người nước ngoài, không được tự do vào VN để làm công tác từ thiện. Điều này có nghĩa là, tất cả mọi công tác từ thiện, dù bằng tiền mặt hay bằng phẩm vật... đều phải qua tay "nhà nước" làm trung gian. CS Hànội còn từ chối cả tàu Hồng Thập Tự của Hải Quân Mỹ tới Sàigòn và Đà Nẳng giúp giải phẩu bệnh tật miễn phí cho đồng bào ta. Không bao giờ VC cho phép các tổ chức người Việt hải ngoại trực tiếp cứu giúp người dân.
Hãy nhớ lại trận bão lụt đồng bằng sông cửu long năm 2004. Lúc đó quý Thầy trong Giáo hội PGVNTN đã lạc quyên được mấy mươi tấn phẩm vật đem đến phân phát cho các nạn nhân, thì bị VC điều công an ập tới tịch thu toàn bộ phẩm vật, giải tán hết đồng bào và bắt hết các Thầy, nói rằng : Tụ tập đông người bất hợp pháp, vi phạm luật nhà nước. Các phẩm vật tịch thu chúng lấy đem chia nhau xài coi như "chiến lợi phẩm" !
Rồi đến trận bão lụt miền Trung năm 2005. Một phái đoàn nhân đạo của các quốc gia Liên Âu đến phân phát phẩm vật, tiền bạc cho các nạn nhân. Vì là phái đoàn ngoại quốc nên VC không dám ngang nhiên trắng trợn tịch thu, bắt bớ. Chúng đợi khi phái đoàn đã quay về Sài Gòn rồi, thì lập tức ngay trong đêm đó, công an VC đã đến từng nhà đồng bào tịch thu vơ vét sạch sành sanh hết... rồi cũng chia nhau xài tỉnh bơ ! Bởi vậy chúng không ham "tịch thu" sao được ?
Một số lớn các nhóm nhân danh từ thiện bịp bợm ở hải ngoại này thừa biết cái chánh sách ác ôn của VC là như vậy, nên họ không dại gì mà đem tiền về để cho VC chơi cha cướp sạch của họ nên đành phải bỏ vô túi riêng của mình cho chắc ăn. Còn đối với các "tổ chức từ thiện" tay sai thì chúng đã có quy định "ăn chia" kiểu phần thịt béo bở là của tao, xương xẩu là của mày. Lòng nhân đạo và từ thiện thì trong chúng ta ai cũng có nhưng chúng ta cần phải cân nhắc cho thật kỹ, lòng nhân đạo của ta phải đặt có đúng chỗ không ? Hay rồi chẳng những tiền mất mà còn bị coi là ngây thơ khờ khạo !?
Kiểm điểm lại chỉ ngay ở Hoa Kỳ này thôi cũng có đến mấy chục tổ chức từ thiện tạm phân chia ra hai loại. Một loại gọi là thường trực, trường kỳ; Còn loại kia thì được gọi là "cơ hội chủ nghĩa".
*Loại thường trực trường kỳ là loại từ thiện có tổ chức, có danh xưng hẳn hoi, làm việc liên tục 24/24/ngày, 7 ngày/tuần, 30 ngày/tháng, 365 ngày/năm. Loại này "nổi cộm" nhứt hiện nay thì có tổ chức Thánh Đường Sài Gòn ở Cali của ông mục sư Nguyễn Xuân Bảo; Thứ nhì là Quỹ Từ Thiện Teresa của phó tế Vũ Thành An ở Oregon (VTA nguyên là một tù nhân chánh trị HO, làm an-ten nổi tiếng trong tù trù dập anh em); Thứ ba nhóm Sưỡi Ấm của nhạc sĩ Trúc Giang; Thứ tư là nhóm Cứu Mù của Đỗ Văn Trọn.
*Loại cơ hội chủ nghĩa còn có biệt danh là "từ thiện du kích" hay "nhảy dù", lâu lâu hễ rình thấy có cơ hội nào đó liền nhảy ra làm một vố rồi ôm tiền lặn mất. Loại này đông như kiến làm sao đếm cho xuể !? Ví dụ như ở Seattle có mụ Nguyễn Thị Nguyệt "cứu mù"; Quốc Nam "cứu Làng Nổi bán máu"; Võ Thành Đông "cứu Thương phế Binh VNCH... Các nhóm này đôi khi yểm trợ cho các nhóm ở nơi khác tới (Đỗ Vẫn Trọn, cứu mù; Tim Rebeau, ngôi nhà may mắn; Nhà văn Văn Quang ở thành Hồ, cứu trợ TPB... Đàng sau các nhóm này luôn luôn được sự hỗ trợ mạnh mẽ của thương gia Trần Đức... bao chót).
Chúng ta có thể khẳng định rằng : Hầu hết các tổ chức từ thiện cho dù là nhân danh cái gì đi nữa cũng đều là lừa bịp hết. Xin hãy nhìn cho kỹ :
*Thứ nhứt, do chánh sách ác ôn của VC có bao giờ để cho vật gì bên ngoài lọt khỏi bàn tay chúng đâu, dù là một vật nhỏ li ti như sợi chỉ cây kim ?
*Có bao giờ chúng ta thấy có tổ chức từ thiện nào đã CÔNG KHAI MINH BẠCH về vấn đề TÀI CHÁNH, về các khoản thu, chi của họ không ? Ví dụ như nhóm mục sư Nguyễn Xuân Bảo, Đỗ Vẫn Trọn, Vũ Thành An... Bọn VC đã "hợp tác" với các nhóm này, cho phép dàn dựng vài màn "đóng phim" cứu trợ... rồi đem về chiếu trên TV để lừa bịp bà con ta. Những màn kịch rẻ tiền này cũng đã làm cho nhiều người ngây thơ bị lừa một cách dễ dàng.
Đây là bằng chứng :
.- Như nhóm mục sư Nguyễn Xuân Bảo, trên màn ảnh truyền hình hàng tuần của hai đài truyền hình VN là SBTN và VHN, ông Bảo thường thông báo số chuyến xe của ông đã chở phẩm vật đi cứu trợ đồng bào mắc bịnh phong cùi. Khi chúng tôi viết bài này thì trên màn hình ông Bảo thông báo là đến chuyến thứ 67 rồi. Có một điều lạ là số chuyến xe thì mỗi tuần đều tăng lên, nhưng trên màn hình thì tuần nào cũng như tuần nấy, cũng đều là hình ảnh cũ từ mấy năm qua được chiếu đi chiếu lại : vẫn hình một đoàn xe năm chiếc đó mà thôi !
Thế mà lúc nào ông Bảo cũng oang oang kêu gọi gởi tiền về cho Thánh Đường Sài Gòn ở Cali cho ông để cứu giúp nạn nhân phong cùi trong những chuyến sắp tới (sic). Không bao giờ nghe ông nói tới chuyện công khai tài chánh cả.
- Như nhóm Đỗ Vẫn Trọn dùng đài truyền hình Viên Thao cũa ông ta, cũng cho chiếu đi chiếu lại từ năm này qua năm khác, cảnh một pha mổ mắt ở Sàigòn, với sự có mặt của ông ta mặc đồ y sĩ trắng trùm mũi miệng, đứng chứng kiến tại chỗ.
- Như Vũ Thành An, chụp hình cái mắt kiếng có một cái bóng mờ trong đó, rồi ông ta đăng lên báo, đọc trên đài phát thanh ở Portland/OR bịp bợm rằng "Đức Mẹ" đã hiện trong mắt kính của ông ta ! Rồi bịp bợm mời bà con tới dự tiệc gây quỹ cho bà con chứng kiếng tận mắt. Nhưng chẳng bao giờ y cho ai xem cả !?
Trở lại vụ mục sư Nguyễn Xuân Bảo. Ông ta không bao giờ công khai công bố tài chánh và danh sách các đối tượng được cứu giúp. Chúng ta cứ tưởng tượng chỉ vỏn vẹn có vài ba năm mà ông ta đã thực hiện được 67 chuyến đi đi, về về Việt Nam dễ dàng như đi chợ. Mỗi chuyến như vậy đều có đoàn xe cả chục chiếc chở đầy phẩm vật cứu trợ... Phét lác có hàng trăm đồng bào sắp hàng, rần rộ tấp nập tới nhận lãnh phẩm vật. Phải thành thật khen ông Bảo là người tu hành, lại khéo hợp tác với VC dàn cảnh đóng phim bịp bợm còn hay hơn cả tài tử gạo cội.
Nhưng cho dù ông ta có đóng phim hay đến đâu đi chăng nữa thì cũng lòi cái đuôi bịp của ông ra. Mỗi lần lên truyền hình, ông đều quảng cáo, đây là chuyến đi thứ 60, 61, 62... nhưng vẫn là hình ảnh cũ được chiếu đi chiếu lại mà thôi !
Rõ ràng những hình này ông Bảo và bọn VC dùng để "bịp" cả thế giới và người Việt hải ngoại thấy rằng: Xã hội VN bây giờ là một thiên đường đầy lòng nhân ái, cảnh tương thân tương trợ giữa người hải ngoại và người trong nước thật gắn bó với nhau, và lũ cán bộ ác ôn VC bây giờ đã trở thành ma sơ, dì phước hết rồi.
Thôi xin can ông mục sư Bảo, phét lác vừa phải thôi, còn để đức lại cho con cháu nó nhờ. Không biết ông được thụ huấn, tẩy não bao nhiêu năm trong cái lò rèn CS ? Ông đã được thay tim đổi óc mấy lần bởi lũ phù thủy VC ? Có một điều ông cần khắc cốt ghi tâm : Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại cùng đồng bào ở trong nước theo chiều dài của lịch sử hơn nửa thế kỷ đấu tranh một mất một còn với CS đã có quá nhiều kinh nghiệm với lũ vô thần CS, không dễ gì ngây thơ tin theo cái trò lừa bịp dối trá qua cái khúc phim "cứu trợ" nạn nhân phong cùi bịp bợm của ông. Xin ông hãy nhớ cho kỹ. Trên đây chúng tôi chỉ nêu lên vài cái tổ chức từ thiện để làm điển hình hầu trong chúng ta cùng có chung một nhận định thật rõ ràng dứt khoát.
*Tất cả các tổ chức từ thiện của người Việt ở hải ngoại này lạc quyên đem tiền về nước cứu trợ đều là LỪA BỊP, nếu không bỏ túi riêng thì cũng ăn chia, hoặc làm kinh tài cho VC. Ngoài ra, còn có các tổ chức từ trong nước ra như tổ chức của cán cái Tim Ruồi Bu, hay một số quý Cha, quý Thầy "quốc doanh" v.v... Nói chung là chúng ta phải có thái độ thật dứt khoát KHÔNG CHO MỘT CẮC cho bất cứ tổ chức từ thiện ở trong hay ngoài nước như đã nói trên. Lòng từ tâm của chúng ta phải đặt cho đúng chỗ đừng để vô tình lại trở thành việc làm NỐI GIÁO CHO GIẶC.
Độ bảy tám năm trở lại đây, câu chuyện từ thiện từ hải ngoại về VN nhằm cứu giúp bà con ta ở quê nhà đang gặp cảnh khốn khó, đói nghèo tàn tật v.v... một ngày một rộ lên. Đặc biệt là kể từ khi có "Quỷ Hỗ Trợ Cộng Đồng" rồi tiếp theo "Nghị Quyết 36" của VC tung ra hải ngoại, thì các tổ chức từ thiện bịp bợm bỗng nhiên mọc lên như nấm.
Ở đâu cũng nghe tới từ thiện. Từ các tổ chức nhân danh tôn giáo, thánh đường, nhà thờ, chùa chiền, rồi đến các tổ chức tư nhân; ở đây tổ chức dạ tiệc gây quỹ cứu mù, cứu đói, giúp trẻ mồ côi khuyết tật, cứu Làng Nổi bán máu. Ở đàng kia tổ chức đại nhạc hội cứu thương phế binh, giúp nạn nhân bão lụt, giúp nạn nhân phong cùi, cứu người già neo đơn v.v... Có nhóm lại còn tổ chức cứu đồng bào Tết Mậu Thân. Cứ cái đà này có lẽ nay mai lại có nhóm đòi gây quỹ giúp các ma tăng bỏ chùa đi... cưới vợ nữa !?
Dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại ở khắp nơi, nhứt là các cơ quan truyền thông báo chí NVQG đã đặt thành vấn đề thật quan trọng cần phải được nêu lên để làm sáng tỏ một sự thật rõ ràng cái bí mật ở đàng sau bức màn "từ thiện". Bao nhiêu là bài bình luận của những tờ báo tên tuổi với những cây viết có giá trị đã đưa đến một kết luận thật dứt khoát :
*Hầu hết các tổ chức từ thiện do người Việt hải ngoại chủ trương đều là thi hành NQ-36 VC lừa bịp mị dân, lợi dụng lòng từ tâm của mọi người để moi tiền bỏ túi hay ăn chia với VC. (Đỗ Vẫn Trọn gây quỹ cứu Mù; Vũ Thành An gây quỹ Từ Thiện Teresa; Cô Tim, Ngôi nhà May mắn; Mục sư Nguyễn Xuân Bảo cứu đói; Trúc Giang, nhóm Sưỡi Ấm; Quốc Nam cứu Làng Nổi bán máu; Võ Thành Đông, cứu trợ thương phế binh v.v...).
*Điều đơn giản rất dễ hiểu là vì chánh sách bất di bất dịch của VC là tuyệt đối cấm không cho bất cứ tổ chức từ thiện nào, kể cả của người nước ngoài, không được tự do vào VN để làm công tác từ thiện. Điều này có nghĩa là, tất cả mọi công tác từ thiện, dù bằng tiền mặt hay bằng phẩm vật... đều phải qua tay "nhà nước" làm trung gian. CS Hànội còn từ chối cả tàu Hồng Thập Tự của Hải Quân Mỹ tới Sàigòn và Đà Nẳng giúp giải phẩu bệnh tật miễn phí cho đồng bào ta. Không bao giờ VC cho phép các tổ chức người Việt hải ngoại trực tiếp cứu giúp người dân.
Hãy nhớ lại trận bão lụt đồng bằng sông cửu long năm 2004. Lúc đó quý Thầy trong Giáo hội PGVNTN đã lạc quyên được mấy mươi tấn phẩm vật đem đến phân phát cho các nạn nhân, thì bị VC điều công an ập tới tịch thu toàn bộ phẩm vật, giải tán hết đồng bào và bắt hết các Thầy, nói rằng : Tụ tập đông người bất hợp pháp, vi phạm luật nhà nước. Các phẩm vật tịch thu chúng lấy đem chia nhau xài coi như "chiến lợi phẩm" !
Rồi đến trận bão lụt miền Trung năm 2005. Một phái đoàn nhân đạo của các quốc gia Liên Âu đến phân phát phẩm vật, tiền bạc cho các nạn nhân. Vì là phái đoàn ngoại quốc nên VC không dám ngang nhiên trắng trợn tịch thu, bắt bớ. Chúng đợi khi phái đoàn đã quay về Sài Gòn rồi, thì lập tức ngay trong đêm đó, công an VC đã đến từng nhà đồng bào tịch thu vơ vét sạch sành sanh hết... rồi cũng chia nhau xài tỉnh bơ ! Bởi vậy chúng không ham "tịch thu" sao được ?
Một số lớn các nhóm nhân danh từ thiện bịp bợm ở hải ngoại này thừa biết cái chánh sách ác ôn của VC là như vậy, nên họ không dại gì mà đem tiền về để cho VC chơi cha cướp sạch của họ nên đành phải bỏ vô túi riêng của mình cho chắc ăn. Còn đối với các "tổ chức từ thiện" tay sai thì chúng đã có quy định "ăn chia" kiểu phần thịt béo bở là của tao, xương xẩu là của mày. Lòng nhân đạo và từ thiện thì trong chúng ta ai cũng có nhưng chúng ta cần phải cân nhắc cho thật kỹ, lòng nhân đạo của ta phải đặt có đúng chỗ không ? Hay rồi chẳng những tiền mất mà còn bị coi là ngây thơ khờ khạo !?
Kiểm điểm lại chỉ ngay ở Hoa Kỳ này thôi cũng có đến mấy chục tổ chức từ thiện tạm phân chia ra hai loại. Một loại gọi là thường trực, trường kỳ; Còn loại kia thì được gọi là "cơ hội chủ nghĩa".
*Loại thường trực trường kỳ là loại từ thiện có tổ chức, có danh xưng hẳn hoi, làm việc liên tục 24/24/ngày, 7 ngày/tuần, 30 ngày/tháng, 365 ngày/năm. Loại này "nổi cộm" nhứt hiện nay thì có tổ chức Thánh Đường Sài Gòn ở Cali của ông mục sư Nguyễn Xuân Bảo; Thứ nhì là Quỹ Từ Thiện Teresa của phó tế Vũ Thành An ở Oregon (VTA nguyên là một tù nhân chánh trị HO, làm an-ten nổi tiếng trong tù trù dập anh em); Thứ ba nhóm Sưỡi Ấm của nhạc sĩ Trúc Giang; Thứ tư là nhóm Cứu Mù của Đỗ Văn Trọn.
*Loại cơ hội chủ nghĩa còn có biệt danh là "từ thiện du kích" hay "nhảy dù", lâu lâu hễ rình thấy có cơ hội nào đó liền nhảy ra làm một vố rồi ôm tiền lặn mất. Loại này đông như kiến làm sao đếm cho xuể !? Ví dụ như ở Seattle có mụ Nguyễn Thị Nguyệt "cứu mù"; Quốc Nam "cứu Làng Nổi bán máu"; Võ Thành Đông "cứu Thương phế Binh VNCH... Các nhóm này đôi khi yểm trợ cho các nhóm ở nơi khác tới (Đỗ Vẫn Trọn, cứu mù; Tim Rebeau, ngôi nhà may mắn; Nhà văn Văn Quang ở thành Hồ, cứu trợ TPB... Đàng sau các nhóm này luôn luôn được sự hỗ trợ mạnh mẽ của thương gia Trần Đức... bao chót).
Chúng ta có thể khẳng định rằng : Hầu hết các tổ chức từ thiện cho dù là nhân danh cái gì đi nữa cũng đều là lừa bịp hết. Xin hãy nhìn cho kỹ :
*Thứ nhứt, do chánh sách ác ôn của VC có bao giờ để cho vật gì bên ngoài lọt khỏi bàn tay chúng đâu, dù là một vật nhỏ li ti như sợi chỉ cây kim ?
*Có bao giờ chúng ta thấy có tổ chức từ thiện nào đã CÔNG KHAI MINH BẠCH về vấn đề TÀI CHÁNH, về các khoản thu, chi của họ không ? Ví dụ như nhóm mục sư Nguyễn Xuân Bảo, Đỗ Vẫn Trọn, Vũ Thành An... Bọn VC đã "hợp tác" với các nhóm này, cho phép dàn dựng vài màn "đóng phim" cứu trợ... rồi đem về chiếu trên TV để lừa bịp bà con ta. Những màn kịch rẻ tiền này cũng đã làm cho nhiều người ngây thơ bị lừa một cách dễ dàng.
Đây là bằng chứng :
.- Như nhóm mục sư Nguyễn Xuân Bảo, trên màn ảnh truyền hình hàng tuần của hai đài truyền hình VN là SBTN và VHN, ông Bảo thường thông báo số chuyến xe của ông đã chở phẩm vật đi cứu trợ đồng bào mắc bịnh phong cùi. Khi chúng tôi viết bài này thì trên màn hình ông Bảo thông báo là đến chuyến thứ 67 rồi. Có một điều lạ là số chuyến xe thì mỗi tuần đều tăng lên, nhưng trên màn hình thì tuần nào cũng như tuần nấy, cũng đều là hình ảnh cũ từ mấy năm qua được chiếu đi chiếu lại : vẫn hình một đoàn xe năm chiếc đó mà thôi !
Thế mà lúc nào ông Bảo cũng oang oang kêu gọi gởi tiền về cho Thánh Đường Sài Gòn ở Cali cho ông để cứu giúp nạn nhân phong cùi trong những chuyến sắp tới (sic). Không bao giờ nghe ông nói tới chuyện công khai tài chánh cả.
- Như nhóm Đỗ Vẫn Trọn dùng đài truyền hình Viên Thao cũa ông ta, cũng cho chiếu đi chiếu lại từ năm này qua năm khác, cảnh một pha mổ mắt ở Sàigòn, với sự có mặt của ông ta mặc đồ y sĩ trắng trùm mũi miệng, đứng chứng kiến tại chỗ.
- Như Vũ Thành An, chụp hình cái mắt kiếng có một cái bóng mờ trong đó, rồi ông ta đăng lên báo, đọc trên đài phát thanh ở Portland/OR bịp bợm rằng "Đức Mẹ" đã hiện trong mắt kính của ông ta ! Rồi bịp bợm mời bà con tới dự tiệc gây quỹ cho bà con chứng kiếng tận mắt. Nhưng chẳng bao giờ y cho ai xem cả !?
Trở lại vụ mục sư Nguyễn Xuân Bảo. Ông ta không bao giờ công khai công bố tài chánh và danh sách các đối tượng được cứu giúp. Chúng ta cứ tưởng tượng chỉ vỏn vẹn có vài ba năm mà ông ta đã thực hiện được 67 chuyến đi đi, về về Việt Nam dễ dàng như đi chợ. Mỗi chuyến như vậy đều có đoàn xe cả chục chiếc chở đầy phẩm vật cứu trợ... Phét lác có hàng trăm đồng bào sắp hàng, rần rộ tấp nập tới nhận lãnh phẩm vật. Phải thành thật khen ông Bảo là người tu hành, lại khéo hợp tác với VC dàn cảnh đóng phim bịp bợm còn hay hơn cả tài tử gạo cội.
Nhưng cho dù ông ta có đóng phim hay đến đâu đi chăng nữa thì cũng lòi cái đuôi bịp của ông ra. Mỗi lần lên truyền hình, ông đều quảng cáo, đây là chuyến đi thứ 60, 61, 62... nhưng vẫn là hình ảnh cũ được chiếu đi chiếu lại mà thôi !
Rõ ràng những hình này ông Bảo và bọn VC dùng để "bịp" cả thế giới và người Việt hải ngoại thấy rằng: Xã hội VN bây giờ là một thiên đường đầy lòng nhân ái, cảnh tương thân tương trợ giữa người hải ngoại và người trong nước thật gắn bó với nhau, và lũ cán bộ ác ôn VC bây giờ đã trở thành ma sơ, dì phước hết rồi.
Thôi xin can ông mục sư Bảo, phét lác vừa phải thôi, còn để đức lại cho con cháu nó nhờ. Không biết ông được thụ huấn, tẩy não bao nhiêu năm trong cái lò rèn CS ? Ông đã được thay tim đổi óc mấy lần bởi lũ phù thủy VC ? Có một điều ông cần khắc cốt ghi tâm : Người Việt Quốc Gia ở hải ngoại cùng đồng bào ở trong nước theo chiều dài của lịch sử hơn nửa thế kỷ đấu tranh một mất một còn với CS đã có quá nhiều kinh nghiệm với lũ vô thần CS, không dễ gì ngây thơ tin theo cái trò lừa bịp dối trá qua cái khúc phim "cứu trợ" nạn nhân phong cùi bịp bợm của ông. Xin ông hãy nhớ cho kỹ. Trên đây chúng tôi chỉ nêu lên vài cái tổ chức từ thiện để làm điển hình hầu trong chúng ta cùng có chung một nhận định thật rõ ràng dứt khoát.
*Tất cả các tổ chức từ thiện của người Việt ở hải ngoại này lạc quyên đem tiền về nước cứu trợ đều là LỪA BỊP, nếu không bỏ túi riêng thì cũng ăn chia, hoặc làm kinh tài cho VC. Ngoài ra, còn có các tổ chức từ trong nước ra như tổ chức của cán cái Tim Ruồi Bu, hay một số quý Cha, quý Thầy "quốc doanh" v.v... Nói chung là chúng ta phải có thái độ thật dứt khoát KHÔNG CHO MỘT CẮC cho bất cứ tổ chức từ thiện ở trong hay ngoài nước như đã nói trên. Lòng từ tâm của chúng ta phải đặt cho đúng chỗ đừng để vô tình lại trở thành việc làm NỐI GIÁO CHO GIẶC.
Tuesday, December 8, 2009
Những Con Chim Nhồi Bông của CĐ hải ngoại
Trương Thế
Mấy hôm nay, trên mạng có nhiều bài viết bàn về Đại Hội Việt Kiều vừa được tổ chức trong nước. Đặc biệt bài của TS Nguyễn Hữu Liêm – nơi giữa đại hội việt kiều: một nỗi bình an, với rất nhiều phản hồi, làm tôi chợt nhớ đến một truyện ngắn mà tôi đã đọc được cách đây hơn 25 năm. Truyện ngắn có tên là „Cái giá của một niền tin” và được đăng trên tờ Văn nghệ Quân Đội (nếu tôi không lầm). Sau khi đọc xong tôi có đưa tờ báo cho một nhà văn có tên tuổi và hỏi ý kiến ông ta về truyện ngắn nầy, thì ông ta bảo rằng: „Người viết truyện nầy là một nhà văn giỏi; nhưng người cho đăng truyện nầy còn giỏi hơn“. (Có lẽ truyện nầy được đăng trước thời điểm ông Nguyễn Văn Linh nói chuyện cởi trói cho văn nghệ sĩ).
Nay thấy nội dung câu chuyện có ít nhiều phù hợp với chuyện Đại Hội Việt Kiều đang được bàn tán, tôi xin kể lại câu chuyện nầy để quí độc giả xem chơi, và cũng để tặng anh Nguyễn Hữu Liêm, người mà tôi đã có cơ hội một lần được gặp và rất ái mộ cái uyên bác về triết học của anh khi nghe anh nói chuyện.
Câu chuyện mà tôi kể lại đây, vì viết theo trí nhớ sau hơn 25 năm, nên có thể tôi quên đi nhiều chi tiết và vì khả năng viết lách của tôi còn kém nên không lột tả hết nội dung của truyện ngắn như chính tác giả đã viết ra, tôi xin tác giả thứ lỗi và cho phép tôi kể lại câu chuyện nầy.
Chuyện kể như thế nầy:
“Tháng Tư năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra với nhiều thuận lợi không ngờ. Trên đường từ Tây Nguyên xuống đồng bằng tiến về thành phố Sài Gòn tiểu đoàn chúng tôi chưa bao giờ gặp nhiều may mắn như thế. Các ổ đề kháng của địch trên đường hành quân của chúng tôi đã tan rã nhanh hơn dự tính. Vì thế chỉ trong vòng mấy mươi ngày mà tiểu đoàn chúng tôi dã về đến sát vòng đai của Thành phố.
Sau nhiều ngày hành quân gần chạy không ngừng nghỉ, chân các chiến sĩ bị bỏng rộp cả lên, nhưng ai cũng háo hức chờ đợi ngày tiến vào Sài Gòn, cứ điểm cuối cùng của kẻ địch. Bỗng dưng tiểu đoàn chúng tôi được lệnh phải đổi hướng hành quân – đi về phía bờ biển ở hướng đông. Thất vọng hiện ra trên từng khuôn mặt của các chiến sĩ trong tiểu đoàn, vì không được cùng các đơn vị khác về tiếp thu thành phố. Nhưng lệnh trên thì phải thi hành. Đến bờ biển và khi tiểu đoàn đã lo đủ thuyền bè thì chúng tôi lên thuyền ra khơi tiến chiếm một hòn đảo cách bờ biển chừng 70 hải lý. Thế là tiểu đoàn chúng tôi bỗng dưng biến thành “lính bộ đánh thuỷ” như những lính trẻ nói đùa. Khi đặt chân lên đảo chúng tôi mới biết rằng đảo không lớn lắm. Tuy thuộc chủ quyền của nước ta, nhưng từ trước đến nay hình như đảo chưa có dấu chân người. Chỉ có một loài chim lạ sinh sống ở đây. Chim, vâng rất nhiều chim. Môt loại chim hầu như không thấy ở đất liền. Chim làm tổ trên những lùm cây thấp, làm tổ ngay ở những hốc đá trên bãi biển. Còn trứng chim thì nơi nào cũng có, chim đẻ trứng tràn lan khắp đảo. Loài chim nầy rất dạn dĩ. Có lẽ loài chim nầy không biết rằng giữa chim và người vốn có cái quan hệ thù địch, nên chim chẳng biết sợ người. Chim có thể đậu trên vai, trên đàu các anh lính như thể chim được nuôi thuần thục trong nhà. Về phần lính ta, cả tháng trời chỉ biết có lương khô Trung quốc, bây giờ đột nhiên có trứng chim, thịt chim là một cải thiện tươi sống vô cùng quí báu. Buổi sang chỉ cần đi một vòng bãi biển là đã có trứng chim đựng đầy chiếc mủ tai bèo. Còn thịt chim ư? Chỉ cần đưa bàn tay ra với một ít lương khô bóp vụn thì thế nào cũng có một hai chú chim thơ ngây sà xuống cánh tay. Lính ta chỉ cần ngoặt bàn tay lại là túm được chú chim ngay. Thôi thi đủ các món ăn bằng thịt chim được chế biến. Chim ba món, chim bảy món, chim rang mặn, chim nướng than củi, chim xào chua ngọt…
Và chỉ cần một tuần thôi thì loài chim thơ ngây kia nhìn ra mối hiểm hoạ từ lớp ngươi vừa đến đảo. Chim đã biết sợ người, chim bắt đầu bỏ đảo bay đi nơi khác. Bay sang các đảo lân cận, nơi không có bong dáng những con người hung ác.
Đến ngày thứ mười kể từ khi tiểu đoàn chúng tôi đến đảo thì trên đảo không còn bóng dáng một con chim.
Mấy ngày sau, trong lần chào cờ buổi sáng, chính trị viên tiểu đoàn đã phê bình chúng tôi một cách nghiêm khắc về việc bộ đội chúng tôi đã làm cho chim bỏ đảo ra đi, rằng hành động ấy là phá hoại thiên nhiên, phá hoại môi trường sống, rằng chúng tôi đã làm một việc không đúng với ý chí và tình cảm của người cộng sản chân chính. Cuối cùng thì đồng chí ấy bảo rằng bắt đầu từ giờ trở đi, không một ai được phép giết chim nữa, và hạn cho chúng tôi trong vòng một tuần lễ phải làm sao đem được đàn chim trở về.
Những ngày sau, chúng tôi đã làm nhiều cách để dụ đàn chim: rải lương khô, cơm sấy ra bãi biển để làm mồi; nấp hết vào lều để chim không thấy bóng người mà đáp xuống đảo. Nhưng tất cả mưu kế đều bị thất bại. Không một bóng chim nào dám trở về.
Cái hạn một tuần lễ của chính trị viên tiểu đoàn sắp hết rồi.
Sáng sớm ngày cuối cùng của tuần lễ mà chính trị viên tiểu đoàn đã hạn định, một vài cậu dậy sớm, ra khỏi lều đã reo lên: Chim trở về – Chim trở về. Chúng tôi vội vã ra ngoài nhìn về phía lùm cây thấp ở cuối bãi. Rõ ràng đã có hai cánh chim về đậu ở đây. Nhưng mà ơ kìa! hai con chim đậu đó đã lâu mà sao không thấy cử động? Dùng ống dòm nhìn thật kỹ thì mới nhận ra đây không phải là hai con chim sống. Ai đó đã để đây hai con chim đã chết rồi. Hai con chim bị rút ruột nhồi bông, nhưng mới nhìn thì tưởng là còn sống.
Tuy rằng đây là chim bị rút ruột nhồi bông nhưng cũng có tác dụng: tạo niền tin cho bầy chim đã bỏ đảo ra đi. Bầy chim ra đi nhưng vẫn nhớ thiết tha tổ cũ, chúng vẫn bay lòng vòng gần đảo chúng tôi đóng quân. Nay thấy có hai cánh chim đậu ở tổ cũ. Hai cánh chim đậu đó như một mối bình an. Niền tin đã trở về, chúng lần lượt bay về đậu tổ cũ. Đến chiều thì chim trở về khá đông. Cả bọn chúng tôi thở phào. Lịnh của chính trị viên tiểu đoàn đã được thực hiện đúng thời hạn.
Nhưng thưa các bạn độc giả, câu chuyện đến đây chưa hoàn toàn chấm dứt.
Tiểu đoàn đã có lệnh cấm không được tiếp tục giết chim. Thế mà ai đó trong tiểu đoàn đã tiếp tuc trái lệnh làm việc nầy.
Tiểu đoàn mở cuộc điều tra truy tìm thủ phạm nhưng không mang lại kết quả.
Hầu hết chúng tôi trong tiểu đoàn cho đến bây giờ vẫn không biết ai đã làm việc nầy.
Hầu hết?
Vâng hầu hết – Trừ hai người. Đó là Đồng chí Chính Trị Viên và tôi – là người viết truyện.
Số là, đêm hôm trước khi cái hạn một tuần sắp qua, vì khó ngủ nên tôi dậy thật sớm và đi xuống mé biển. Trời còn tối lắm. Trong tranh tối tranh sáng tôi chợt nhận ra một bóng người đang lúi húi cởi bỏ quần áo ngoài nhét vào gộp đá rồi xuống nước bơi qua một hòn đảo, cách đảo chúng tôi ở chừng vài cây số, nơi có nhiều chim đang ngủ trên đó. Tôi nán lại ở bờ biển chờ xem người đó là ai?
Lúc người đó bơi trở về tôi mới nhận ra chính là thủ trưởng của tôi – Đồng chí chính trị viên – vốn là một cựu tướng về bơi lội. Lận trong cạp quần của anh là hai con chim đã bị bẻ gãy cổ. Lên bờ anh nhân ngay ra sự có mặt của tôi. Gọi tôi lại anh bảo tôi hứa phải giữ kín câu chuyện nầy, không được kể cho ai biết.
Giữ lời hứa với anh, tôi chưa hề kể với ai cái bí mật nầy. Tôi chỉ viết lại đây để các độc giả có được vài phút giải trí.”
Câu chuyện của tôi đến đây là hết. Trong tôi còn vấn vương với câu hỏi: Không biết nỗi bình an của anh Nguyễn Hữu Liêm ở Đại Hội Việt kiều có giống nỗi bình an của những con chim nhồi bông trên hoang đảo hay không?
München, ngày 01.12.2009
Trương Thế
Mấy hôm nay, trên mạng có nhiều bài viết bàn về Đại Hội Việt Kiều vừa được tổ chức trong nước. Đặc biệt bài của TS Nguyễn Hữu Liêm – nơi giữa đại hội việt kiều: một nỗi bình an, với rất nhiều phản hồi, làm tôi chợt nhớ đến một truyện ngắn mà tôi đã đọc được cách đây hơn 25 năm. Truyện ngắn có tên là „Cái giá của một niền tin” và được đăng trên tờ Văn nghệ Quân Đội (nếu tôi không lầm). Sau khi đọc xong tôi có đưa tờ báo cho một nhà văn có tên tuổi và hỏi ý kiến ông ta về truyện ngắn nầy, thì ông ta bảo rằng: „Người viết truyện nầy là một nhà văn giỏi; nhưng người cho đăng truyện nầy còn giỏi hơn“. (Có lẽ truyện nầy được đăng trước thời điểm ông Nguyễn Văn Linh nói chuyện cởi trói cho văn nghệ sĩ).
Nay thấy nội dung câu chuyện có ít nhiều phù hợp với chuyện Đại Hội Việt Kiều đang được bàn tán, tôi xin kể lại câu chuyện nầy để quí độc giả xem chơi, và cũng để tặng anh Nguyễn Hữu Liêm, người mà tôi đã có cơ hội một lần được gặp và rất ái mộ cái uyên bác về triết học của anh khi nghe anh nói chuyện.
Câu chuyện mà tôi kể lại đây, vì viết theo trí nhớ sau hơn 25 năm, nên có thể tôi quên đi nhiều chi tiết và vì khả năng viết lách của tôi còn kém nên không lột tả hết nội dung của truyện ngắn như chính tác giả đã viết ra, tôi xin tác giả thứ lỗi và cho phép tôi kể lại câu chuyện nầy.
Chuyện kể như thế nầy:
“Tháng Tư năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra với nhiều thuận lợi không ngờ. Trên đường từ Tây Nguyên xuống đồng bằng tiến về thành phố Sài Gòn tiểu đoàn chúng tôi chưa bao giờ gặp nhiều may mắn như thế. Các ổ đề kháng của địch trên đường hành quân của chúng tôi đã tan rã nhanh hơn dự tính. Vì thế chỉ trong vòng mấy mươi ngày mà tiểu đoàn chúng tôi dã về đến sát vòng đai của Thành phố.
Sau nhiều ngày hành quân gần chạy không ngừng nghỉ, chân các chiến sĩ bị bỏng rộp cả lên, nhưng ai cũng háo hức chờ đợi ngày tiến vào Sài Gòn, cứ điểm cuối cùng của kẻ địch. Bỗng dưng tiểu đoàn chúng tôi được lệnh phải đổi hướng hành quân – đi về phía bờ biển ở hướng đông. Thất vọng hiện ra trên từng khuôn mặt của các chiến sĩ trong tiểu đoàn, vì không được cùng các đơn vị khác về tiếp thu thành phố. Nhưng lệnh trên thì phải thi hành. Đến bờ biển và khi tiểu đoàn đã lo đủ thuyền bè thì chúng tôi lên thuyền ra khơi tiến chiếm một hòn đảo cách bờ biển chừng 70 hải lý. Thế là tiểu đoàn chúng tôi bỗng dưng biến thành “lính bộ đánh thuỷ” như những lính trẻ nói đùa. Khi đặt chân lên đảo chúng tôi mới biết rằng đảo không lớn lắm. Tuy thuộc chủ quyền của nước ta, nhưng từ trước đến nay hình như đảo chưa có dấu chân người. Chỉ có một loài chim lạ sinh sống ở đây. Chim, vâng rất nhiều chim. Môt loại chim hầu như không thấy ở đất liền. Chim làm tổ trên những lùm cây thấp, làm tổ ngay ở những hốc đá trên bãi biển. Còn trứng chim thì nơi nào cũng có, chim đẻ trứng tràn lan khắp đảo. Loài chim nầy rất dạn dĩ. Có lẽ loài chim nầy không biết rằng giữa chim và người vốn có cái quan hệ thù địch, nên chim chẳng biết sợ người. Chim có thể đậu trên vai, trên đàu các anh lính như thể chim được nuôi thuần thục trong nhà. Về phần lính ta, cả tháng trời chỉ biết có lương khô Trung quốc, bây giờ đột nhiên có trứng chim, thịt chim là một cải thiện tươi sống vô cùng quí báu. Buổi sang chỉ cần đi một vòng bãi biển là đã có trứng chim đựng đầy chiếc mủ tai bèo. Còn thịt chim ư? Chỉ cần đưa bàn tay ra với một ít lương khô bóp vụn thì thế nào cũng có một hai chú chim thơ ngây sà xuống cánh tay. Lính ta chỉ cần ngoặt bàn tay lại là túm được chú chim ngay. Thôi thi đủ các món ăn bằng thịt chim được chế biến. Chim ba món, chim bảy món, chim rang mặn, chim nướng than củi, chim xào chua ngọt…
Và chỉ cần một tuần thôi thì loài chim thơ ngây kia nhìn ra mối hiểm hoạ từ lớp ngươi vừa đến đảo. Chim đã biết sợ người, chim bắt đầu bỏ đảo bay đi nơi khác. Bay sang các đảo lân cận, nơi không có bong dáng những con người hung ác.
Đến ngày thứ mười kể từ khi tiểu đoàn chúng tôi đến đảo thì trên đảo không còn bóng dáng một con chim.
Mấy ngày sau, trong lần chào cờ buổi sáng, chính trị viên tiểu đoàn đã phê bình chúng tôi một cách nghiêm khắc về việc bộ đội chúng tôi đã làm cho chim bỏ đảo ra đi, rằng hành động ấy là phá hoại thiên nhiên, phá hoại môi trường sống, rằng chúng tôi đã làm một việc không đúng với ý chí và tình cảm của người cộng sản chân chính. Cuối cùng thì đồng chí ấy bảo rằng bắt đầu từ giờ trở đi, không một ai được phép giết chim nữa, và hạn cho chúng tôi trong vòng một tuần lễ phải làm sao đem được đàn chim trở về.
Những ngày sau, chúng tôi đã làm nhiều cách để dụ đàn chim: rải lương khô, cơm sấy ra bãi biển để làm mồi; nấp hết vào lều để chim không thấy bóng người mà đáp xuống đảo. Nhưng tất cả mưu kế đều bị thất bại. Không một bóng chim nào dám trở về.
Cái hạn một tuần lễ của chính trị viên tiểu đoàn sắp hết rồi.
Sáng sớm ngày cuối cùng của tuần lễ mà chính trị viên tiểu đoàn đã hạn định, một vài cậu dậy sớm, ra khỏi lều đã reo lên: Chim trở về – Chim trở về. Chúng tôi vội vã ra ngoài nhìn về phía lùm cây thấp ở cuối bãi. Rõ ràng đã có hai cánh chim về đậu ở đây. Nhưng mà ơ kìa! hai con chim đậu đó đã lâu mà sao không thấy cử động? Dùng ống dòm nhìn thật kỹ thì mới nhận ra đây không phải là hai con chim sống. Ai đó đã để đây hai con chim đã chết rồi. Hai con chim bị rút ruột nhồi bông, nhưng mới nhìn thì tưởng là còn sống.
Tuy rằng đây là chim bị rút ruột nhồi bông nhưng cũng có tác dụng: tạo niền tin cho bầy chim đã bỏ đảo ra đi. Bầy chim ra đi nhưng vẫn nhớ thiết tha tổ cũ, chúng vẫn bay lòng vòng gần đảo chúng tôi đóng quân. Nay thấy có hai cánh chim đậu ở tổ cũ. Hai cánh chim đậu đó như một mối bình an. Niền tin đã trở về, chúng lần lượt bay về đậu tổ cũ. Đến chiều thì chim trở về khá đông. Cả bọn chúng tôi thở phào. Lịnh của chính trị viên tiểu đoàn đã được thực hiện đúng thời hạn.
Nhưng thưa các bạn độc giả, câu chuyện đến đây chưa hoàn toàn chấm dứt.
Tiểu đoàn đã có lệnh cấm không được tiếp tục giết chim. Thế mà ai đó trong tiểu đoàn đã tiếp tuc trái lệnh làm việc nầy.
Tiểu đoàn mở cuộc điều tra truy tìm thủ phạm nhưng không mang lại kết quả.
Hầu hết chúng tôi trong tiểu đoàn cho đến bây giờ vẫn không biết ai đã làm việc nầy.
Hầu hết?
Vâng hầu hết – Trừ hai người. Đó là Đồng chí Chính Trị Viên và tôi – là người viết truyện.
Số là, đêm hôm trước khi cái hạn một tuần sắp qua, vì khó ngủ nên tôi dậy thật sớm và đi xuống mé biển. Trời còn tối lắm. Trong tranh tối tranh sáng tôi chợt nhận ra một bóng người đang lúi húi cởi bỏ quần áo ngoài nhét vào gộp đá rồi xuống nước bơi qua một hòn đảo, cách đảo chúng tôi ở chừng vài cây số, nơi có nhiều chim đang ngủ trên đó. Tôi nán lại ở bờ biển chờ xem người đó là ai?
Lúc người đó bơi trở về tôi mới nhận ra chính là thủ trưởng của tôi – Đồng chí chính trị viên – vốn là một cựu tướng về bơi lội. Lận trong cạp quần của anh là hai con chim đã bị bẻ gãy cổ. Lên bờ anh nhân ngay ra sự có mặt của tôi. Gọi tôi lại anh bảo tôi hứa phải giữ kín câu chuyện nầy, không được kể cho ai biết.
Giữ lời hứa với anh, tôi chưa hề kể với ai cái bí mật nầy. Tôi chỉ viết lại đây để các độc giả có được vài phút giải trí.”
Câu chuyện của tôi đến đây là hết. Trong tôi còn vấn vương với câu hỏi: Không biết nỗi bình an của anh Nguyễn Hữu Liêm ở Đại Hội Việt kiều có giống nỗi bình an của những con chim nhồi bông trên hoang đảo hay không?
München, ngày 01.12.2009
Mùa từ thiện … kéo dài
Viết tại Quận Cam, ngày 5 tháng 12, 2009.
Nguyễn Mỹ Linh
Khi viết bài “Mùa Từ Thiện” tôi đã nhìn thấy trước “chắc chắn là bài viết này sẽ làm cho nhiều người khó chịu hay nổi giận, nhất là các hội đoàn từ thiện hay cơ quan truyền thông đang chăm chú kêu gọi cứu trợ bão lụt miền Trung Việt Nam”. Vì vậy thật không có gì ngạc nhiên khi tôi đọc bài trả lời gần đây của một nhà từ thiện lỗi lạc và nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ (và ngay cả ở Việt Nam nữa chứ !).
Để viết được “Mùa từ thiện”, đúng như lời một vị độc giả đã nói là nhờ trải qua “kinh nghiệm xương máu”, tôi đã không còn lạ gì với các chiêu thức mà các cai thầu từ thiện cho VN đã dùng để quyên tiền bá tánh tứ phương. Cho nên tôi cũng không ngạc nhiên với chiêu bài lấp liếm nhằm khích động cái “thiện” trong mỗi con người, đại loại như “Ai làm được điều gì chúng ta nên trân trọng. Ai chưa làm được một chút gì chúng ta nên khuyến khích. Thiết tưởng những điều ấy tốt hơn là không làm gì cả. Hay tệ hơn là chỉ biết chê bai” (Trịnh Hội, “Để trả lời bài viết Mùa Từ Thiện”, báo Người Việt Online, 28 tháng 11, 2009).
“Nhân chi sơ tính bản thiện”, nhất là đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản VN thì tôi tin chắc là mỗi người trong chúng ta không nhiều thì ít, bằng cách này hoặc cách khác, đều đã đóng góp cho người VN ở quê nhà trong suốt bao năm qua. Vì vậy nếu bài trả lời đó hàm ý rằng tôi (hay bất cứ ai trong chúng ta) “không biết làm gì chỉ biết chê bai” thì tôi e rằng những lời lẽ đó quá hồ đồ, thiếu suy nghĩ, mang tính tự mãn, tự cao, và đầy ác ý, nhất là đối với một người mà ông chưa từng quen biết.
Xin thưa:
“Rằng tôi thân phận đàn bà,
Đi làm, bếp núc, cửa nhà, chồng con.”
Là một người rất bình thường, “vô danh, tiểu tốt” như biết bao người Việt tỵ nạn bình thường khác đang sống trong một cộng đồng người Việt to lớn ở quận Cam, chắc chắn là tôi không dám so tài với nhà làm việc từ thiện nổi tiếng kể trên. Và dĩ nhiên, so với những công việc từ thiện vĩ đại mà ông đã làm thì những đóng góp từ thiện nhỏ nhoi của tôi thật chẳng “nhằm nhò” gì để mà kể lể. Nhưng không phải vì thế mà những đóng góp từ thiện nhỏ bé đó của tôi lại có thể biến tôi trở thành người “chưa làm được một chút gì” hay “không làm gì cả” như ông đã chụp mũ.
Tương tự như vậy, với công việc làm hèn mọn của mình, chắc chắn là tôi không đóng thuế nhiều bằng các chuyên gia lỗi lạc, nhưng đó là sự đóng góp công bằng của tôi đối với xã hội, và chắc chắn là nó công bằng hơn nhiều so với số tiền đóng thuế rất khả nghi của nhiều vị cai thầu từ thiện đi mây về gió giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đó là chưa kể nhiều vị nhân danh “tổ chức từ thiện & phi chính trị” để thỏa mãn tham vọng thầm kín cá nhân thấy mình trở thành nổi tiếng không thua gì Bồ Tát cứu nhân độ thế, hoặc thánh Martin de Pores của thế kỷ 21. Và còn tệ hơn nữa khi tôi khám phá ra rằng có những vị quảng cáo ầm ĩ trên radio & tivi cho công tác cứu trợ ở Việt Nam nhưng họ vẫn tiếp tục ăn “welfare” ở Mỹ.
Như vậy thì ai đáng “chê bai” ở đây ?
Còn bảo rằng bài viết “Mùa Từ Thiện” đã “chính trị hóa một vấn đề hoàn toàn nhân đạo” thì xin thưa là chính Cộng Sản Việt Nam đã “chính trị hóa” các công tác về nước làm từ thiện của một ông thiền sư nổi tiếng khi ông về nước bỏ ra hàng triệu dollars tiền đóng góp của người Việt hải ngoại để xây dựng các cơ sở hạ tầng cho công cuộc từ thiện ở VN, và cũng chính Cộng Sản VN đã và đang “chính trị hóa” các tu sĩ Bát Nhã chỉ biết lặng thinh cầu nguyện, không một tấc sắt cầm tay khi công an VN tấn công, qui tội họ là “vi phạm luật pháp VN” và quyết truy đuổi họ đến tận cùng.
Bạn nghĩ sao nếu chính bạn đã giao tiền bạc cho ông thiền sư để xây dựng những cơ sở từ thiện ở Bát Nhã ? Bài học của ông thiền sư và các môn đệ của ông vẫn còn mới toanh, và còn đang tiếp diễn ở VN. Tôi tin chắc là đã có nhiều bài học “bỏ của chạy lấy người” khác nữa mà các nhà làm việc từ thiện “chui” của chúng ta đã và đang “ngậm bồ hòn làm ngọt”, chịu khó “ngậm đắng nuốt cay vì chính nghĩa từ thiện”, hoặc “im lặng là vàng” để “chìm xuồng” luôn hàng trăm ngàn dollars “lót tay” cho công an nhà nước VN như một vài chuyện tôi đã được nghe qua. Như vậy thì ai là kẻ đã “chính trị hóa” vấn đề làm từ thiện ở Việt Nam ?
Có thể tôi và nhiều người VN bình thường khác trong cộng đồng không có công đóng góp nhiều bằng nhà làm việc từ thiện lỗi lạc và tiếng tăm kia. Chúng tôi cũng không có “thành tích” làm việc chung với “nữ xướng ngôn viên khả ái” này, hay cô MC duyên dáng nọ, hoặc ông nhạc sĩ nổi tiếng kia như ông đã hợm hĩnh khoe khoang trong bài “Để trả lời bài viết Mùa Từ Thiện”. Chúng tôi cũng không làm được chuyện như gọi điện thoại mời cô ca sĩ này hay “anh em nghệ sĩ “ nọ tham gia trình diễn văn nghệ cứu trợ VN như ông đã kể lể trong một bài viết khác để tự “nâng bi” chính mình. Thế nhưng những đồng tiền đóng góp âm thầm và nhỏ nhoi của chúng tôi cho Việt Nam là do chính mồ hôi, công sức làm ra mà chúng tôi đã chắt chiu, dè sẻn sau khi trả tiền thuế, tiền nhà, tiền bills, tiền xe, tiền học, tiền lo cho con cái, … Đó là những đồng tiền mồ hôi, nước mắt mà đáng lẻ chúng tôi phải dành dụm để trả tiền college cho tương lai sau này của các con nhưng vì thấy chúng còn nhỏ, chưa cần gấp nên chúng tôi đã không ngần ngại khi bỏ số tiền đó vào các thùng tiền cứu trợ VN của quý vị. Chính vì vậy mà tự nhiên chúng tôi cảm thấy xót xa khi nghe những chuyện thất thoát hàng trăm ngàn dollars để “lót tay” hối lộ cho nhân viên nhà nước VN. Và đương nhiên chúng tôi có quyền tự hỏi thực sự có bao nhiêu tiền đã đến chính tay nạn nhân cần được cứu trợ, có bao nhiêu tiền quảng cáo đã chi cho báo, đài, tivi, có bao nhiêu tiền “lo lót” cho “lệ phí hành chánh”, bao nhiêu đã tiêu vào vé máy bay, khách sạn, di chuyển xe cộ, và có bao nhiêu tiền các nhà làm việc từ thiện “chui” đã tiêu dùng để “chén chú, chén anh”, và các cuộc mây mưa khác với cán bộ Cộng Sản trong chuyến “công tác du lịch” về VN ? Hay chúng tôi không có quyền đếm xỉa vì đó là tiền “chùa”, hoặc “của chung không ai khóc”?
Bao năm qua chúng tôi đã nghe ra rả những lời kêu gọi cứu trợ cho VN ở trên các phương tiện truyền thông, hết cơn bão này tới nạn lụt nọ. Nhưng tuyệt nhiên không có quý vị nào cho chúng tôi một bản báo cáo chi tiết là số tiền quyên góp đã được dùng vào những việc gì, đã trả cho những ai, có biên nhận hay không, …. Sau hàng tiếng kêu gào cứu trợ đủ loại trên tivi, radio, sau những buổi trống kèn văn nghệ đình đám là một sự im lặng khó hiểu, để rồi chúng tôi lại tiếp tục nghe thêm những đợt kêu gọi cứu trợ triền miên và bất tận khác cho VN.
Ắt hẵn các nhà làm từ thiện thừa biết rằng khi thu tiền dưới danh nghĩa từ thiện mà lại tiêu dùng mờ ám, không biên nhận, sổ sách, báo cáo rõ ràng để nhân viên sở thuế có thể “audit” là vi phạm luật thuế Hoa Kỳ. Đó là chưa kể đến tội biển thủ (embezzlement), gian lận (fraud), và cũng chưa kể đến tội giấu giếm không khai báo cho quan thuế (US Customs) khi mang trong người hơn $10,000 tiền mặt ra khỏi nước Mỹ. Chỉ mới điểm sơ sơ qua luật pháp Hoa Kỳ thôi nhé, chưa kể đến luật rừng của VN, và chắc có lẻ các “dịch vụ” từ thiện nên nghĩ đến việc chịu trách nhiệm (accountable) cho mỗi đồng bạc thất thoát không biên nhận.
Viết đến đây tôi cần phải mở ngoặc để cảm ơn sự minh bạch, rõ ràng của vài hội đoàn cứu trợ các thương phế binh VNCH mà tôi đã được xem qua các bảng báo cáo trên báo chí, và đặt đây là trường hợp ngoại lệ mà tất cả chúng ta cần phải tiếp tục ủng hộ vì ai cũng biết rằng nhà nước VN sẽ mãi mãi coi họ là kẻ thù, không thuộc diện “nhân dân” để nhà nước có bổn phận chăm sóc. Điều này còn được thể hiện qua một sự kiện đã được báo chí đề cập đến là các nghệ sĩ ở trong nước đã không dám lên sân khấu trình diễn trong một buổi văn nghệ lạc quyên cứu trợ thương phế binh VNCH tại quận Cam, mặc dù họ vẫn thường xuyên xuất hiện trong các chương trình lạc quyên khác của giới cai thầu từ thiện cho VN.
Hãy nhìn lại suốt hơn 30 năm qua chúng ta đã có bao nhiêu công cuộc cứu trợ cho VN ? đã có bao nhiêu hàng tỷ dollars đổ về VN như đổ nước vào một chiếc bình rỗng không đáy trong khi dân nghèo VN ngày càng nhiều hơn, nghèo hơn, và giai cấp thống trị & tư bản đỏ càng giàu hơn và tham nhũng hối lộ nhiều hơn, tinh vi hơn ? Xin nhìn cho rõ vấn đề mà bài viết “Mùa Từ Thiện” đã nêu ra là tại sao các công cuộc kêu gọi cứu trợ và làm việc từ thiện cho dân nghèo VN lại không tập trung, không chú ý vào giai cấp thống trị và đám nhà giàu nhàn rỗi, dư tiền, lắm của ở ngay chính VN ? Chúng tôi hoàn toàn đồng ý là những con người nghèo khổ và đáng thương ở VN kia rất cần được giúp đỡ, chỉ xin các nhà cai thầu từ thiện vui lòng chuyển “mũi dùi tấn công” của quý vị đến đám nhà giàu, đầy quyền thế ở VN và đến cả đám “celebrities” mang nhãn “Ziệt kiều” (hay Việt gian ?) đang sống đề huề với Cộng Sản VN.
Vì sao ư ? – Vì con bò Mỹ quốc này đã cạn kiệt bơ sữa, và đang gầy đói giơ xương sau hơn 30 năm bị vắt kiệt, vì chúng ta đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng, vì cộng đồng chúng ta vẫn còn nghèo, còn nhiều vấn nạn phải lo toan, còn nhiều nợ nần chưa trả đối với những quốc gia đã cứu vớt chúng ta trên bước đường tỵ nạn, vì chúng ta còn bổn phận công dân đối với chính đất nước đã và đang cưu mang chúng ta bao năm qua và sẽ còn tiếp tục cưu mang gia đình & con cháu chúng ta trong tương lai. Chỉ có đơn giản và dễ hiểu vậy thôi ! Xin đừng mất công diễn dịch thêm bài viết “Mùa Từ Thiện”, đừng hiểu lầm, đừng xuyên tạc, đừng lấp liếm, xập xí xập ngầu mà qui tội, chụp mũ cho bài viết “Mùa Từ Thiện”, hoặc lợi dụng nó để tô bóng, đề cao cái mác “Việt gian yêu nước” hay “celebrity” cho chính mình. Tội lắm, ai ơi !
Cứ thử nghĩ mà xem, mái nhà bạn bị dột tứ tung trong cơn dông tầm tã thì bạn sẽ lo cứu nhà mình trước hết, hay bạn sẽ bỏ mặc con cái bạn ở đấy để chạy qua bên kia đường “ra tay nghĩa hiệp” cứu giúp cho nhà cửa đang bị lụt của cái anh nhà giàu nứt đổ vách người VN ? Và sau khi bạn đã tạm ổn định căn nhà của bạn, tôi hy vọng là bạn sẽ nghĩ đến hai căn nhà vọp vẹo đang bị dông bão tứ bề của ông hàng xóm X và bà hàng xóm Y ở ngay sát hai bên nhà bạn vì ngày xưa lúc bạn còn nghèo rách mồng tơi, hai nhà hàng xóm này đã không “kỳ thị” khi cho bạn tạm tá túc mặc dù họ cũng chẳng khá giả gì và mặc dù bạn không cùng màu da, tiếng nói với họ. Hay nay bạn sẽ kỳ thị, không mủi lòng giúp họ chỉ vì họ không phải là người Việt Nam ?
Cũng có vị độc giả đắn đo “nếu không giúp thì nhà nước Việt Nam cũng chẳng bị hại chút nào. Thử nhìn sang Bắc Hàn mà xem. Dân càng nghèo đói thì nhà nước độc tài chỉ càng mạnh thêm mà thôi“. Xin thưa là nhà nước VN có bị hại hay không thì lịch sử sẽ có câu trả lời trong tương lai và chúng ta hãy kiên nhẫn để cho bánh xe tiến hóa của lịch sử có cơ hội làm việc. Sự “bảo bọc” của chúng ta đối với VN hơn 30 năm qua rõ ràng là một sức cản lớn đạp bàn thắng kềm hãm vòng quay bánh xe tiến hóa của đất nước vì chúng ta chỉ “chữa cháy” ở ngọn, chứ không ở gốc. Trong những ngày tháng đen tối bị giam hãm ở trong tù, nếu ông Lech Walesa (lãnh tụ công đoàn Đoàn Kết) chua chát nghĩ là chế độ CS ở Ba Lan sẽ “cũng chẳng bị hại chút nào” vì xe tăng của Liên Xô sẽ tràn vào bảo vệ đàn em CS Ba Lan như họ đã từng làm trong thập niên 1960s thì chắc chắn là ông đã dẹp bỏ công đoàn Đoàn Kết từ lâu và ông đã không bao giờ trở thành tổng thống đầu tiên của một nước Ba Lan không cộng sản, và dĩ nhiên là chuyện đó đã không xảy ra trong một sớm một chiều. Vì vậy xin hãy kiên nhẫn và hãy để cho các nhà đấu tranh dân chủ trong nước có cơ hội. Cũng xin đừng so sánh Bắc Hàn với Việt Nam hiện nay vì đó là sự so sánh “orange” với “apple”. Bắc Hàn hiện nay chỉ có thể so sánh với miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa của VN trước 1975 khi dân chúng còn mù quáng tin vào chế độ, vào lãnh tụ, vào hy sinh gian khổ “hạt muối cắn làm đôi” để giải phóng miền Nam “bị Mỹ Ngụy kềm kẹp”. Họ chỉ mở mắt khám phá ra rằng mình bị nhà nước CS lừa bịp khi vào tới nhìn miền Nam sau 30 tháng 4, và đó cũng là lý do cho làn sóng vượt biên của dân miền Bắc VN đến Hồng Kông sau 1975. Bắc Hàn vẫn chưa đạt đến giai đoạn này.
Dù biết rằng có rất nhiều độc giả đồng ý với bài viết “Mùa Từ Thiện”, tôi vẫn không tin là bài viết đã “đập vỡ nồi cơm” của các cai thầu từ thiện cho VN như một độc giả đã lo xa. “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bằng chứng hùng hồn là sau khi bài viết “Mùa Từ Thiện” được tung lên các mạng điện tử (đa phần là nhờ các độc giả làm giùm chuyện này) thì tôi vẫn tiếp tục được xem trên tivi những cảnh quyên tiền marathon cho VN mà khán giả gọi vào đóng góp thật vô tư, hào hứng. Thậm chí tôi còn nghe hai ông xướng ngôn viên trên một đài truyền hình ở quận Cam bàn với nhau trước mặt khán giả là hai ông sẽ lập một quỹ từ thiện để giúp VN xây lại “cây cầu tử thần”. Và mùa từ thiện vẫn tiếp tục … nở rộ trong các buổi trình diễn văn nghệ cứu trợ VN thành công ngoài sức tưởng tượng của các nhà cai thầu. Như vậy thì xin các ngài cai thầu từ thiện cho VN cứ yên tâm vì mùa từ thiện của quý vị vẫn … kéo dài. Làm sao mà một bài viết tầm thường như “Mùa Từ Thiện” lại có thể “đập vỡ nồi cơm” của quý vị được ? Ngược lại, tôi xin được mạn phép “trộm” bài thơ Chúc Tết của cụ Trần Tế Xương mà rằng:
“Phen này tôi quyết đi buôn … giỏ” (để quý vị đựng tiền quyên góp từ thiện)
“Vừa bán vừa la cũng đắt hàng”.
Tuy nhiên, trong tinh thần “nghệ thuật vì nghệ thuật” mà nhiều nghệ sĩ VN đã cổ võ cho việc “giao lưu văn hóa 2 chiều”, tôi mạo muội đề nghị thêm là xin các nhà làm việc từ thiện lỗi lạc cho VN hãy đứng ra tổ chức những buổi đại nhạc hội quy mô, những buổi văn nghệ thật xôm tụ ở ngay tại Việt Nam để kêu gọi quyên tiền từ các nhà tư bản đỏ, các doanh nhân, “celebrities” & “Việt gian yêu nước”, nhất là các quan chức Cộng Sản VN vẫn thường bày tỏ mối “quan tâm ái ngại” đến 3 triệu con dân thuộc “khúc ruột dư ngoài ngàn dặm” để … nhờ họ giúp cho cộng đồng chúng ta “tí” tiền nhằm thay thế và sửa chữa các đường ống nước “fountain drink” dơ bẩn trong các trường học của con em chúng ta, để họ giúp người già trong cộng đồng chúng ta có nơi nương tựa, có trung tâm sinh hoạt, giúp các em học sinh vô gia cư có nơi trú ngụ (vì nhà cửa đã bị ngân hàng xiết nợ), …… So với những số tiền hối lộ khổng lồ và lối xài tiền vung vít của các quan chức Cộng Sản VN thì những sự thiếu thốn và khó khăn hiện tại của cộng đồng chúng ta nào có bỏ bèn gì ? Nhưng xin đừng quên nhắn gửi cho CSVN biết là chớ có mà “chính trị hóa” vấn đề hoàn toàn nhân đạo này với nghị quyết số 36, 39 gì đó nhá !
Tôi nghe đâu tháng 11 vừa rồi Cộng Sản VN đã tổ chức “Đại Hội Ziệt Kiều” lớn lắm. Chẳng hay các nhà làm việc từ thiện đi mây về gió như tác giả của bài “Để trả lời bài viết Mùa Từ Thiện” chẳng hạn có tham dự cái Đại Hội đó không ? Quý vị đi đâu hết cả rồi ? Và còn những nghệ sĩ thích “giao lưu 2 chiều” nữa ? Tại sao quý vị không biết lợi dụng cơ hội ngàn vàng này mà “báo cáo” cho Đảng và nhà nước VN biết được những nỗi khốn khó của “khúc ruột dư ngoài ngàn dặm”, để ca bài “bầu ơi thương lấy bí cùng”, để kêu gọi CSVN tinh thần “máu chảy ruột mềm” mà quyên tiền cho cộng đồng mình ? “Chiếc lá” ở ngoài này đã “rách” tả tơi lắm rồi sau hơn 30 năm “đùm” bọc cho quê hương dân tộc VN. May ra kỳ này “chiếc lá” của nhà nước VN và các tay tư sản lớn nhỏ trong nước có “đùm” giùm cho cộng đồng chúng ta một tí được hay không ? Nếu được như vậy thì quý hóa quá, và tôi tin chắc rằng “mùa từ thiện” của quý vị sẽ … kéo dài lê thê, và rất là … được mùa nữa là đằng khác.
Xin gửi lời chúc may mắn đến quý vị “vác ngà voi” ở VN này !
Tái bút: Tác giả xin chân thành cảm tạ các độc giả đã có lòng yêu thích bài viết “Mùa Từ Thiện” và đã giúp loan tải bài viết này thật nhanh chóng trên các mạng điện tử. Xin được mạn phép trích lời của một độc giả ở VN : “Hậu quả của thiên tai tại Việt Nam thương tâm thật đó nhưng quý vị cũng nên sáng suốt khi ủng hộ giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng bài viết này nên được gửi đến từng người trong cộng đồng người Việt tại ngoại quốc để họ đọc và suy nghĩ đến tính hiệu quả cũng như hậu quả của việc mình làm”. Tác giả xin trân trọng đa tạ nhận định sáng suốt này, và ước mong bài viết “Mùa Từ Thiện” sẽ được các độc giả tiếp tục giới thiệu đến với mỗi gia đình VN ở hải ngoại. Nguyễn Mỹ Linh
http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=1830:1830&catid=37:bandoc&Itemid=56
Viết tại Quận Cam, ngày 5 tháng 12, 2009.
Nguyễn Mỹ Linh
Khi viết bài “Mùa Từ Thiện” tôi đã nhìn thấy trước “chắc chắn là bài viết này sẽ làm cho nhiều người khó chịu hay nổi giận, nhất là các hội đoàn từ thiện hay cơ quan truyền thông đang chăm chú kêu gọi cứu trợ bão lụt miền Trung Việt Nam”. Vì vậy thật không có gì ngạc nhiên khi tôi đọc bài trả lời gần đây của một nhà từ thiện lỗi lạc và nổi tiếng trong cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ (và ngay cả ở Việt Nam nữa chứ !).
Để viết được “Mùa từ thiện”, đúng như lời một vị độc giả đã nói là nhờ trải qua “kinh nghiệm xương máu”, tôi đã không còn lạ gì với các chiêu thức mà các cai thầu từ thiện cho VN đã dùng để quyên tiền bá tánh tứ phương. Cho nên tôi cũng không ngạc nhiên với chiêu bài lấp liếm nhằm khích động cái “thiện” trong mỗi con người, đại loại như “Ai làm được điều gì chúng ta nên trân trọng. Ai chưa làm được một chút gì chúng ta nên khuyến khích. Thiết tưởng những điều ấy tốt hơn là không làm gì cả. Hay tệ hơn là chỉ biết chê bai” (Trịnh Hội, “Để trả lời bài viết Mùa Từ Thiện”, báo Người Việt Online, 28 tháng 11, 2009).
“Nhân chi sơ tính bản thiện”, nhất là đã từng sống dưới chế độ Cộng Sản VN thì tôi tin chắc là mỗi người trong chúng ta không nhiều thì ít, bằng cách này hoặc cách khác, đều đã đóng góp cho người VN ở quê nhà trong suốt bao năm qua. Vì vậy nếu bài trả lời đó hàm ý rằng tôi (hay bất cứ ai trong chúng ta) “không biết làm gì chỉ biết chê bai” thì tôi e rằng những lời lẽ đó quá hồ đồ, thiếu suy nghĩ, mang tính tự mãn, tự cao, và đầy ác ý, nhất là đối với một người mà ông chưa từng quen biết.
Xin thưa:
“Rằng tôi thân phận đàn bà,
Đi làm, bếp núc, cửa nhà, chồng con.”
Là một người rất bình thường, “vô danh, tiểu tốt” như biết bao người Việt tỵ nạn bình thường khác đang sống trong một cộng đồng người Việt to lớn ở quận Cam, chắc chắn là tôi không dám so tài với nhà làm việc từ thiện nổi tiếng kể trên. Và dĩ nhiên, so với những công việc từ thiện vĩ đại mà ông đã làm thì những đóng góp từ thiện nhỏ nhoi của tôi thật chẳng “nhằm nhò” gì để mà kể lể. Nhưng không phải vì thế mà những đóng góp từ thiện nhỏ bé đó của tôi lại có thể biến tôi trở thành người “chưa làm được một chút gì” hay “không làm gì cả” như ông đã chụp mũ.
Tương tự như vậy, với công việc làm hèn mọn của mình, chắc chắn là tôi không đóng thuế nhiều bằng các chuyên gia lỗi lạc, nhưng đó là sự đóng góp công bằng của tôi đối với xã hội, và chắc chắn là nó công bằng hơn nhiều so với số tiền đóng thuế rất khả nghi của nhiều vị cai thầu từ thiện đi mây về gió giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đó là chưa kể nhiều vị nhân danh “tổ chức từ thiện & phi chính trị” để thỏa mãn tham vọng thầm kín cá nhân thấy mình trở thành nổi tiếng không thua gì Bồ Tát cứu nhân độ thế, hoặc thánh Martin de Pores của thế kỷ 21. Và còn tệ hơn nữa khi tôi khám phá ra rằng có những vị quảng cáo ầm ĩ trên radio & tivi cho công tác cứu trợ ở Việt Nam nhưng họ vẫn tiếp tục ăn “welfare” ở Mỹ.
Như vậy thì ai đáng “chê bai” ở đây ?
Còn bảo rằng bài viết “Mùa Từ Thiện” đã “chính trị hóa một vấn đề hoàn toàn nhân đạo” thì xin thưa là chính Cộng Sản Việt Nam đã “chính trị hóa” các công tác về nước làm từ thiện của một ông thiền sư nổi tiếng khi ông về nước bỏ ra hàng triệu dollars tiền đóng góp của người Việt hải ngoại để xây dựng các cơ sở hạ tầng cho công cuộc từ thiện ở VN, và cũng chính Cộng Sản VN đã và đang “chính trị hóa” các tu sĩ Bát Nhã chỉ biết lặng thinh cầu nguyện, không một tấc sắt cầm tay khi công an VN tấn công, qui tội họ là “vi phạm luật pháp VN” và quyết truy đuổi họ đến tận cùng.
Bạn nghĩ sao nếu chính bạn đã giao tiền bạc cho ông thiền sư để xây dựng những cơ sở từ thiện ở Bát Nhã ? Bài học của ông thiền sư và các môn đệ của ông vẫn còn mới toanh, và còn đang tiếp diễn ở VN. Tôi tin chắc là đã có nhiều bài học “bỏ của chạy lấy người” khác nữa mà các nhà làm việc từ thiện “chui” của chúng ta đã và đang “ngậm bồ hòn làm ngọt”, chịu khó “ngậm đắng nuốt cay vì chính nghĩa từ thiện”, hoặc “im lặng là vàng” để “chìm xuồng” luôn hàng trăm ngàn dollars “lót tay” cho công an nhà nước VN như một vài chuyện tôi đã được nghe qua. Như vậy thì ai là kẻ đã “chính trị hóa” vấn đề làm từ thiện ở Việt Nam ?
Có thể tôi và nhiều người VN bình thường khác trong cộng đồng không có công đóng góp nhiều bằng nhà làm việc từ thiện lỗi lạc và tiếng tăm kia. Chúng tôi cũng không có “thành tích” làm việc chung với “nữ xướng ngôn viên khả ái” này, hay cô MC duyên dáng nọ, hoặc ông nhạc sĩ nổi tiếng kia như ông đã hợm hĩnh khoe khoang trong bài “Để trả lời bài viết Mùa Từ Thiện”. Chúng tôi cũng không làm được chuyện như gọi điện thoại mời cô ca sĩ này hay “anh em nghệ sĩ “ nọ tham gia trình diễn văn nghệ cứu trợ VN như ông đã kể lể trong một bài viết khác để tự “nâng bi” chính mình. Thế nhưng những đồng tiền đóng góp âm thầm và nhỏ nhoi của chúng tôi cho Việt Nam là do chính mồ hôi, công sức làm ra mà chúng tôi đã chắt chiu, dè sẻn sau khi trả tiền thuế, tiền nhà, tiền bills, tiền xe, tiền học, tiền lo cho con cái, … Đó là những đồng tiền mồ hôi, nước mắt mà đáng lẻ chúng tôi phải dành dụm để trả tiền college cho tương lai sau này của các con nhưng vì thấy chúng còn nhỏ, chưa cần gấp nên chúng tôi đã không ngần ngại khi bỏ số tiền đó vào các thùng tiền cứu trợ VN của quý vị. Chính vì vậy mà tự nhiên chúng tôi cảm thấy xót xa khi nghe những chuyện thất thoát hàng trăm ngàn dollars để “lót tay” hối lộ cho nhân viên nhà nước VN. Và đương nhiên chúng tôi có quyền tự hỏi thực sự có bao nhiêu tiền đã đến chính tay nạn nhân cần được cứu trợ, có bao nhiêu tiền quảng cáo đã chi cho báo, đài, tivi, có bao nhiêu tiền “lo lót” cho “lệ phí hành chánh”, bao nhiêu đã tiêu vào vé máy bay, khách sạn, di chuyển xe cộ, và có bao nhiêu tiền các nhà làm việc từ thiện “chui” đã tiêu dùng để “chén chú, chén anh”, và các cuộc mây mưa khác với cán bộ Cộng Sản trong chuyến “công tác du lịch” về VN ? Hay chúng tôi không có quyền đếm xỉa vì đó là tiền “chùa”, hoặc “của chung không ai khóc”?
Bao năm qua chúng tôi đã nghe ra rả những lời kêu gọi cứu trợ cho VN ở trên các phương tiện truyền thông, hết cơn bão này tới nạn lụt nọ. Nhưng tuyệt nhiên không có quý vị nào cho chúng tôi một bản báo cáo chi tiết là số tiền quyên góp đã được dùng vào những việc gì, đã trả cho những ai, có biên nhận hay không, …. Sau hàng tiếng kêu gào cứu trợ đủ loại trên tivi, radio, sau những buổi trống kèn văn nghệ đình đám là một sự im lặng khó hiểu, để rồi chúng tôi lại tiếp tục nghe thêm những đợt kêu gọi cứu trợ triền miên và bất tận khác cho VN.
Ắt hẵn các nhà làm từ thiện thừa biết rằng khi thu tiền dưới danh nghĩa từ thiện mà lại tiêu dùng mờ ám, không biên nhận, sổ sách, báo cáo rõ ràng để nhân viên sở thuế có thể “audit” là vi phạm luật thuế Hoa Kỳ. Đó là chưa kể đến tội biển thủ (embezzlement), gian lận (fraud), và cũng chưa kể đến tội giấu giếm không khai báo cho quan thuế (US Customs) khi mang trong người hơn $10,000 tiền mặt ra khỏi nước Mỹ. Chỉ mới điểm sơ sơ qua luật pháp Hoa Kỳ thôi nhé, chưa kể đến luật rừng của VN, và chắc có lẻ các “dịch vụ” từ thiện nên nghĩ đến việc chịu trách nhiệm (accountable) cho mỗi đồng bạc thất thoát không biên nhận.
Viết đến đây tôi cần phải mở ngoặc để cảm ơn sự minh bạch, rõ ràng của vài hội đoàn cứu trợ các thương phế binh VNCH mà tôi đã được xem qua các bảng báo cáo trên báo chí, và đặt đây là trường hợp ngoại lệ mà tất cả chúng ta cần phải tiếp tục ủng hộ vì ai cũng biết rằng nhà nước VN sẽ mãi mãi coi họ là kẻ thù, không thuộc diện “nhân dân” để nhà nước có bổn phận chăm sóc. Điều này còn được thể hiện qua một sự kiện đã được báo chí đề cập đến là các nghệ sĩ ở trong nước đã không dám lên sân khấu trình diễn trong một buổi văn nghệ lạc quyên cứu trợ thương phế binh VNCH tại quận Cam, mặc dù họ vẫn thường xuyên xuất hiện trong các chương trình lạc quyên khác của giới cai thầu từ thiện cho VN.
Hãy nhìn lại suốt hơn 30 năm qua chúng ta đã có bao nhiêu công cuộc cứu trợ cho VN ? đã có bao nhiêu hàng tỷ dollars đổ về VN như đổ nước vào một chiếc bình rỗng không đáy trong khi dân nghèo VN ngày càng nhiều hơn, nghèo hơn, và giai cấp thống trị & tư bản đỏ càng giàu hơn và tham nhũng hối lộ nhiều hơn, tinh vi hơn ? Xin nhìn cho rõ vấn đề mà bài viết “Mùa Từ Thiện” đã nêu ra là tại sao các công cuộc kêu gọi cứu trợ và làm việc từ thiện cho dân nghèo VN lại không tập trung, không chú ý vào giai cấp thống trị và đám nhà giàu nhàn rỗi, dư tiền, lắm của ở ngay chính VN ? Chúng tôi hoàn toàn đồng ý là những con người nghèo khổ và đáng thương ở VN kia rất cần được giúp đỡ, chỉ xin các nhà cai thầu từ thiện vui lòng chuyển “mũi dùi tấn công” của quý vị đến đám nhà giàu, đầy quyền thế ở VN và đến cả đám “celebrities” mang nhãn “Ziệt kiều” (hay Việt gian ?) đang sống đề huề với Cộng Sản VN.
Vì sao ư ? – Vì con bò Mỹ quốc này đã cạn kiệt bơ sữa, và đang gầy đói giơ xương sau hơn 30 năm bị vắt kiệt, vì chúng ta đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng, vì cộng đồng chúng ta vẫn còn nghèo, còn nhiều vấn nạn phải lo toan, còn nhiều nợ nần chưa trả đối với những quốc gia đã cứu vớt chúng ta trên bước đường tỵ nạn, vì chúng ta còn bổn phận công dân đối với chính đất nước đã và đang cưu mang chúng ta bao năm qua và sẽ còn tiếp tục cưu mang gia đình & con cháu chúng ta trong tương lai. Chỉ có đơn giản và dễ hiểu vậy thôi ! Xin đừng mất công diễn dịch thêm bài viết “Mùa Từ Thiện”, đừng hiểu lầm, đừng xuyên tạc, đừng lấp liếm, xập xí xập ngầu mà qui tội, chụp mũ cho bài viết “Mùa Từ Thiện”, hoặc lợi dụng nó để tô bóng, đề cao cái mác “Việt gian yêu nước” hay “celebrity” cho chính mình. Tội lắm, ai ơi !
Cứ thử nghĩ mà xem, mái nhà bạn bị dột tứ tung trong cơn dông tầm tã thì bạn sẽ lo cứu nhà mình trước hết, hay bạn sẽ bỏ mặc con cái bạn ở đấy để chạy qua bên kia đường “ra tay nghĩa hiệp” cứu giúp cho nhà cửa đang bị lụt của cái anh nhà giàu nứt đổ vách người VN ? Và sau khi bạn đã tạm ổn định căn nhà của bạn, tôi hy vọng là bạn sẽ nghĩ đến hai căn nhà vọp vẹo đang bị dông bão tứ bề của ông hàng xóm X và bà hàng xóm Y ở ngay sát hai bên nhà bạn vì ngày xưa lúc bạn còn nghèo rách mồng tơi, hai nhà hàng xóm này đã không “kỳ thị” khi cho bạn tạm tá túc mặc dù họ cũng chẳng khá giả gì và mặc dù bạn không cùng màu da, tiếng nói với họ. Hay nay bạn sẽ kỳ thị, không mủi lòng giúp họ chỉ vì họ không phải là người Việt Nam ?
Cũng có vị độc giả đắn đo “nếu không giúp thì nhà nước Việt Nam cũng chẳng bị hại chút nào. Thử nhìn sang Bắc Hàn mà xem. Dân càng nghèo đói thì nhà nước độc tài chỉ càng mạnh thêm mà thôi“. Xin thưa là nhà nước VN có bị hại hay không thì lịch sử sẽ có câu trả lời trong tương lai và chúng ta hãy kiên nhẫn để cho bánh xe tiến hóa của lịch sử có cơ hội làm việc. Sự “bảo bọc” của chúng ta đối với VN hơn 30 năm qua rõ ràng là một sức cản lớn đạp bàn thắng kềm hãm vòng quay bánh xe tiến hóa của đất nước vì chúng ta chỉ “chữa cháy” ở ngọn, chứ không ở gốc. Trong những ngày tháng đen tối bị giam hãm ở trong tù, nếu ông Lech Walesa (lãnh tụ công đoàn Đoàn Kết) chua chát nghĩ là chế độ CS ở Ba Lan sẽ “cũng chẳng bị hại chút nào” vì xe tăng của Liên Xô sẽ tràn vào bảo vệ đàn em CS Ba Lan như họ đã từng làm trong thập niên 1960s thì chắc chắn là ông đã dẹp bỏ công đoàn Đoàn Kết từ lâu và ông đã không bao giờ trở thành tổng thống đầu tiên của một nước Ba Lan không cộng sản, và dĩ nhiên là chuyện đó đã không xảy ra trong một sớm một chiều. Vì vậy xin hãy kiên nhẫn và hãy để cho các nhà đấu tranh dân chủ trong nước có cơ hội. Cũng xin đừng so sánh Bắc Hàn với Việt Nam hiện nay vì đó là sự so sánh “orange” với “apple”. Bắc Hàn hiện nay chỉ có thể so sánh với miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa của VN trước 1975 khi dân chúng còn mù quáng tin vào chế độ, vào lãnh tụ, vào hy sinh gian khổ “hạt muối cắn làm đôi” để giải phóng miền Nam “bị Mỹ Ngụy kềm kẹp”. Họ chỉ mở mắt khám phá ra rằng mình bị nhà nước CS lừa bịp khi vào tới nhìn miền Nam sau 30 tháng 4, và đó cũng là lý do cho làn sóng vượt biên của dân miền Bắc VN đến Hồng Kông sau 1975. Bắc Hàn vẫn chưa đạt đến giai đoạn này.
Dù biết rằng có rất nhiều độc giả đồng ý với bài viết “Mùa Từ Thiện”, tôi vẫn không tin là bài viết đã “đập vỡ nồi cơm” của các cai thầu từ thiện cho VN như một độc giả đã lo xa. “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Bằng chứng hùng hồn là sau khi bài viết “Mùa Từ Thiện” được tung lên các mạng điện tử (đa phần là nhờ các độc giả làm giùm chuyện này) thì tôi vẫn tiếp tục được xem trên tivi những cảnh quyên tiền marathon cho VN mà khán giả gọi vào đóng góp thật vô tư, hào hứng. Thậm chí tôi còn nghe hai ông xướng ngôn viên trên một đài truyền hình ở quận Cam bàn với nhau trước mặt khán giả là hai ông sẽ lập một quỹ từ thiện để giúp VN xây lại “cây cầu tử thần”. Và mùa từ thiện vẫn tiếp tục … nở rộ trong các buổi trình diễn văn nghệ cứu trợ VN thành công ngoài sức tưởng tượng của các nhà cai thầu. Như vậy thì xin các ngài cai thầu từ thiện cho VN cứ yên tâm vì mùa từ thiện của quý vị vẫn … kéo dài. Làm sao mà một bài viết tầm thường như “Mùa Từ Thiện” lại có thể “đập vỡ nồi cơm” của quý vị được ? Ngược lại, tôi xin được mạn phép “trộm” bài thơ Chúc Tết của cụ Trần Tế Xương mà rằng:
“Phen này tôi quyết đi buôn … giỏ” (để quý vị đựng tiền quyên góp từ thiện)
“Vừa bán vừa la cũng đắt hàng”.
Tuy nhiên, trong tinh thần “nghệ thuật vì nghệ thuật” mà nhiều nghệ sĩ VN đã cổ võ cho việc “giao lưu văn hóa 2 chiều”, tôi mạo muội đề nghị thêm là xin các nhà làm việc từ thiện lỗi lạc cho VN hãy đứng ra tổ chức những buổi đại nhạc hội quy mô, những buổi văn nghệ thật xôm tụ ở ngay tại Việt Nam để kêu gọi quyên tiền từ các nhà tư bản đỏ, các doanh nhân, “celebrities” & “Việt gian yêu nước”, nhất là các quan chức Cộng Sản VN vẫn thường bày tỏ mối “quan tâm ái ngại” đến 3 triệu con dân thuộc “khúc ruột dư ngoài ngàn dặm” để … nhờ họ giúp cho cộng đồng chúng ta “tí” tiền nhằm thay thế và sửa chữa các đường ống nước “fountain drink” dơ bẩn trong các trường học của con em chúng ta, để họ giúp người già trong cộng đồng chúng ta có nơi nương tựa, có trung tâm sinh hoạt, giúp các em học sinh vô gia cư có nơi trú ngụ (vì nhà cửa đã bị ngân hàng xiết nợ), …… So với những số tiền hối lộ khổng lồ và lối xài tiền vung vít của các quan chức Cộng Sản VN thì những sự thiếu thốn và khó khăn hiện tại của cộng đồng chúng ta nào có bỏ bèn gì ? Nhưng xin đừng quên nhắn gửi cho CSVN biết là chớ có mà “chính trị hóa” vấn đề hoàn toàn nhân đạo này với nghị quyết số 36, 39 gì đó nhá !
Tôi nghe đâu tháng 11 vừa rồi Cộng Sản VN đã tổ chức “Đại Hội Ziệt Kiều” lớn lắm. Chẳng hay các nhà làm việc từ thiện đi mây về gió như tác giả của bài “Để trả lời bài viết Mùa Từ Thiện” chẳng hạn có tham dự cái Đại Hội đó không ? Quý vị đi đâu hết cả rồi ? Và còn những nghệ sĩ thích “giao lưu 2 chiều” nữa ? Tại sao quý vị không biết lợi dụng cơ hội ngàn vàng này mà “báo cáo” cho Đảng và nhà nước VN biết được những nỗi khốn khó của “khúc ruột dư ngoài ngàn dặm”, để ca bài “bầu ơi thương lấy bí cùng”, để kêu gọi CSVN tinh thần “máu chảy ruột mềm” mà quyên tiền cho cộng đồng mình ? “Chiếc lá” ở ngoài này đã “rách” tả tơi lắm rồi sau hơn 30 năm “đùm” bọc cho quê hương dân tộc VN. May ra kỳ này “chiếc lá” của nhà nước VN và các tay tư sản lớn nhỏ trong nước có “đùm” giùm cho cộng đồng chúng ta một tí được hay không ? Nếu được như vậy thì quý hóa quá, và tôi tin chắc rằng “mùa từ thiện” của quý vị sẽ … kéo dài lê thê, và rất là … được mùa nữa là đằng khác.
Xin gửi lời chúc may mắn đến quý vị “vác ngà voi” ở VN này !
Tái bút: Tác giả xin chân thành cảm tạ các độc giả đã có lòng yêu thích bài viết “Mùa Từ Thiện” và đã giúp loan tải bài viết này thật nhanh chóng trên các mạng điện tử. Xin được mạn phép trích lời của một độc giả ở VN : “Hậu quả của thiên tai tại Việt Nam thương tâm thật đó nhưng quý vị cũng nên sáng suốt khi ủng hộ giúp đỡ. Tôi nghĩ rằng bài viết này nên được gửi đến từng người trong cộng đồng người Việt tại ngoại quốc để họ đọc và suy nghĩ đến tính hiệu quả cũng như hậu quả của việc mình làm”. Tác giả xin trân trọng đa tạ nhận định sáng suốt này, và ước mong bài viết “Mùa Từ Thiện” sẽ được các độc giả tiếp tục giới thiệu đến với mỗi gia đình VN ở hải ngoại. Nguyễn Mỹ Linh
http://www.lyhuong.net/viet/index.php?option=com_content&view=article&id=1830:1830&catid=37:bandoc&Itemid=56
Tôi nằm gác tay lên trán...
Tiểu Tử
Hồi nãy, nằm một mình trong phòng, tôi gác tay lên trán hồi nào tôi không hay!
Một cử chỉ rất tầm thường, ở quê tôi - Việt Nam – thiên hạ hay làm như vậy khi suy nghĩ chuyện gì hay khi gặp khó khăn gì. Và thường thì cử chỉ ‘gác tay lên trán’ đó lâu lâu có kèm theo tiếng thở dài… làm như để trút ra một cái gì đang đè trong lòng ngực.
Nhớ hồi nhỏ, bắt chước người lớn nằm gác tay lên trán là bị rầy: “Lấy tay xuống! Làm vậy không nên!”. Không ai giải thích tại sao không nên, nhưng rồi khi lớn lên, không ai dạy mà tự nhiên cũng biết nằm gác tay lên trán, và cũng không ai dạy mà tự nhiên cũng biết thở dài…
Tôi bỏ xứ đi chui từ cuối 1978. Bao nhiêu năm ‘trôi sông lạc chợ’ ở nhiều nơi, tôi không thấy ai nằm gác tay lên trán hết! Và tôi cũng quên mất cái cử chỉ tầm thường đó, cho đến hồi nãy đây tôi bắt gặp lại ‘nó’ trong lúc nằm một mình trong phòng. Thì ra ‘nó’ đã theo tôi đi lưu vong, ẩn mình một cách khiêm nhường trong tiềm thức, để bây giờ ‘nó’ cầm cánh tay tôi gác lên trán, tự nhiên như ngày xưa – ba mươi năm trước – khi tôi chưa rời khỏi quê hương…
Ở đây - ở Pháp - thời tiết đang vào thu. Lá cây chỉ mới lai rai ngả màu vàng chớ chưa rơi rụng vội. Trời còn sáng trong, đầy nắng chớ chưa ảm đạm âm u và cũng mới se se lạnh thôi, chỉ cần quấn cái khăn lên cổ là ra đường đủ ấm.
Một chút ‘tả cảnh’ để thấy tôi không bị tù chân tù cẳng trong chung cư như vào mùa đông tháng giá, cái mùa mà một người già ‘tám bó’ như tôi ngày ngày vì sợ lạnh nên cứ ru rú trong nhà bước qua bước lại trong sáu chục thước vuông hay xem tê-lê để ngủ gà ngủ gật! Như vậy, thì đâu có gì bắt tôi phải nằm nhà để gác tay lên trán?
Kể ra, từ ngày tôi vượt biên rồi định cư ở Pháp, chắc nhờ Ông Bà độ nên cuộc đời lưu vong của tôi đã không bị ‘ba chìm bảy nổi’. Có… lang bang ba tháng đầu đi tìm việc làm, nhờ tiền trợ cấp của nhà nước nên không đến nỗi te tua, mấy đứa con cũng có chỗ ăn chỗ học. Rồi duyên may đưa tôi qua Phi Châu làm việc hết mười mấy năm, khi về hưu ở Pháp thì con cái đã lập gia đình và ‘ra riêng’ hết. Vợ chồng tôi thâu gọn lại, liệu cơm mà gắp mắm, nên cuộc sống cũng an bày. Lâu lâu chạy lại nhà con giữ cháu nội cháu ngoại, và lâu lâu đi ‘đổi gió’ xa xa gần gần… Tóm lại, cuộc sống về già mà được như vậy là…‘có phước rồi còn muốn gì nữa?’. Vậy mà hồi nãy tôi đã nằm gác tay lên trán và lâu lâu lại thở dài…
Hồi sáng, một thằng bạn già gọi điện thoại cho hay vợ chồng thằng A về Việt Nam bị chận lại ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Sau đó, ‘họ’ cho bà vợ ‘nhập khẩu’ còn ông chồng thì bị đuổi trở về Pháp, dĩ nhiên là không cho biết lý do! Ông chồng khuyên vợ cứ vào đi, dẫu là gì gì đi nữa thì cũng là quê hương mình mà! Nghe kể đến đó, tôi tưởng tượng như chính tôi đang đứng ở trong nhà ga phi trường Tân Sơn Nhứt, nhìn qua các khung cửa kiếng thấy quê hương tôi ở ngay bên ngoài, cái quê hương mà ba mươi năm tôi chưa nhìn lại, cái quê hương mà ngay bây giờ, mặc dầu đang đứng bên trong nhà ga, khứu giác của tôi vẫn nghe rõ được mùi…
Ờ… mùi quê hương! Có mùi bông lài, bông bưởi, bông cau… Có mùi lúa chín, mùi rơm mùi rạ… Rồi mùi đống un, mùi chuồng trâu chuồng bò… Rồi mùi bùn non khi nước ròng bỏ bãi…v.v… Tôi biết, vợ chồng thằng A - nhỏ hơn tôi gần một con giáp – cũng có gốc ‘ruộng’ như tôi, nghĩa là đã lớn lên ở thôn quê, đã lội bưng lội đồng bắt cá mò cua từ thuở nhỏ bị nước phèn đóng lớp vào tay chân nên lúc nào cũng thấy mốc cời! Tôi chắc chắn vợ chồng nó đứng trong ga phi trường cũng nghe mùi quê hương như tôi đã tưởng tượng. Vợ thằng A - người VN được chánh quyền VN cho phép về quê hương để dời mồ mả ông bà cha mẹ họ hàng ra khỏi đất hương hỏa theo lịnh của nhà nước – nghe lời chồng khuyên ‘vào đi em’ bèn nhìn qua lần cửa kiếng để nhận thấy cái mùi quê hương nó hấp dẫn vô cùng, nó lôi kéo vô cùng, chỉ cần bước có mấy bước là đặt chân vào mảnh đất thân yêu mà mình đã xa cách gần ba mươi năm… Tôi biết, vợ thằng A là một người dàn bà thật thà trung hậu, chắc thế nào cô ta cũng quay lại nhìn chồng rồi rơi nước mắt lắc đầu.
Đúng như tôi nghĩ, thằng bạn già kể tiếp trong điện thoại: “Hai đứa nó đã về đến Paris hồi sáng, phone từ phi trường Charles de Gaulle cho hay nội vụ và nhấn mạnh rằng tụi nó coi như tụi nó thí cô hồn! ”. Nói xong, thằng bạn già cười vang khoái trá trước khi nói ‘au revoir’!
Tôi gác máy, nhìn quanh nhớ lại hôm nay rằm vợ tôi đi làm công quả ở chùa tới tối mới về, tôi bèn vào phòng nằm đọc báo. Tờ Figaro đầy chữ như vậy mà tôi không làm sao đọc được một hàng! Trong đầu tôi còn vang vang tiếng cười của thằng bạn già và câu nói ‘thí cô hồn’ của vợ chồng thằng A. Tôi buông tờ báo, nghiêng người nhìn ra cửa sổ, nghĩ đến cảnh vợ chồng nó bị ‘quây’ trong phi trường Tân Sơn Nhứt, mà thương! Ở xứ người, mình vào ra dễ dàng – dĩ nhiên là đừng… mang dao hay mang bom mang súng, cũng đừng mang bạch phiến cần sa! – còn mình về xứ mình, mặc dầu trong thông hành có ‘Giấy Miễn Thị Thực – Certificate Of Visa Exemption’ do Đại Sứ Quán VN tại Pháp cấp, mình vẫn gặp khó khăn trắc trở bất ngờ mà mình không bao giờ được biết lý do! Vợ chồng A ‘thí cô hồn’ là phải! Ở đó mà cãi à? Toàn là một lũ cô hồn thì nói thứ tiếng gì cho chúng nó hiểu?
Tôi trở mình nhìn lên trần nhà, miên man nghĩ về quê hương, hay nói cho rõ hơn, tôi nhớ về cái làng quê của tôi nằm bên sông Vàm Cỏ. Không biết cái ‘Chợ Nhỏ’ bây giờ còn đó hay đã bị ‘di dời’ đi nơi khác, theo… truyền thống đổi đời của cách mạng? (Trong làng chỉ có một cái chợ, vậy mà thiên hạ gọi là Chợ Nhỏ, làm như còn một cái chợ nào khác lớn hơn vậy!) Còn ‘Ngã Ba Cây Trôm’ nằm trên con lộ cái, chỗ có bãi đất trống để xe đò tấp vô rước khách, chỗ có cây trôm mà dân trong làng hay đem dao đến chém vào thân cây để lấy mủ đem về pha nước đường uống giải khát giải nhiệt… không biết có nằm trong một ‘quy hoạch cải cách đô thị có trình độ khoa học cao’ của nhà nước Còn cái đình làng, bây giờ đã thành một cơ quan gì chưa? Cái bến cát nằm dài theo ven sông, chỗ mà ngày xưa - thuở nhỏ - tụi tôi kéo nhau một lũ cởi truồng tắm giỡn đùng đùng… bây giờ vẫn còn là bến cát hay đã bị chiếm dụng để mấy ‘ông lớn’ xây dinh thự với tường rào kiên cố và nhà thủy tạ có cầu tàu nằm trườn ra sông ngạo nghễ? Cái lò đường trong Xóm Mới, vào mùa mía chạy che ép mía ngày đêm nghe trèo trẹo, nấu đường làm mùi thơm ngọt lịm bay trùm cả xóm… bây giờ còn là ‘Lò Đường Ông Út K’ hay đã… biến thành ‘Nhà Máy Đường của Nhà Nước’? Trường tiểu học mà thời tôi còn đi học, ông đốc H cho gắn trên trụ cổng tấm bảng ‘Cấm Trâu Bò Vào Trường’ vì mấy ông chủ bò hay thả bò vào ăn cỏ dọc hàng rào bông bụp… bây giờ đã thành… cái gì rồi Và nghĩa địa của làng, thường gọi là ‘gò đồng mả’, nằm một bên con đường đất đỏ dẫn vào Xóm Trong, cái gò đó - cả trăm năm – là nơi an nghỉ cuối cùng của dân trong làng, không phân biệt lớn nhỏ giàu nghèo… vẫn còn đó hay đã nhường chỗ cho những ‘Công Trình Văn Hóa Phục Vụ Nhân Dân’?
…Nhớ đến đó, tự nhiên tôi thở dài… Rồi tự nhiên tôi gác tay lên trán…
Tôi vẫn nhìn lên trần nhà: trần nhà trắng phau, ở đó không hiện lên được một nét nào của quê hương tôi hết. Rồi tôi nghĩ: nếu tôi có trở lại VN, có ‘được phép’ đặt chân lên vùng đất mẹ, chắc chắn tôi sẽ không tìm lại được những hình ảnh cũ. Bởi vì quê hương tôi đã bị ‘họ’ bôi xóa trắng như trần nhà tôi đang nhìn, để thay vào đó bằng một cái gì không ra cái gì hết, mang nhãn hiệu ‘Dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh’, nghe mà… điếc con ráy!
Bây giờ, tôi hiểu tại sao tôi đã nằm gác tay lên trán mà thở dài…
Monday, November 23, 2009
Đằng Sau Vụ Cảnh Sát Sanjose Hành Hung Du Sinh Hồ Phương
Trọng Tín (Kyoto)
Kính thưa qúy vị độc giả,
Nhẽ ra tôi không muốn làm mất thì giờ quý báu của qúy vị về chuyên tên du sinh Hồ Phương nào đó bởi đã có quá nhiều bàn luận về vấn đề này, tuy nhiên những phản ứng xung quanh sự kiện này không khỏi làm chúng ta suy nghĩ. Bài viết này không nhằm mục đích khai thác chuyện phân tích xem bên nào đúng, bên nào sai, hoặc bàn về khía cạnh tôn trọng nhân quyền hay không trong quá trình thi hành và bảo vệ pháp luật tại Hoa Kỳ, mà nhắm vào những phản ứng kỳ lạ của những người được gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” và tụi VGCS.
Như quý vị đã biết, du sinh Hồ Phương bị cảnh sát San Jose bắt vì tội đe dọa tính mạng đến bạn của hắn, nhưng hắn lại tỏ thái độ bất hợp tác với cảnh sát bằng kiểu lăn ra ăn vạ, la lối um sùm (xin mời xem lại kỹ đoạn video trên youtube), tất nhiên là với cách hành xử như vậy thì tất nhiên là phải nhận vài cái bạt tai, hay dùi cui (baton), hay ăn roi điện (taser) vv… đó cũng là lẽ thường trong hành xử của cảnh sát khi những đối tượng bị tình nghi là tội phạm không chịu tuân theo yêu cầu chấp hành hành pháp luật, nói cách khác là chống lại người thi hành công vụ. Tuy nhiên, sự việc có thể coi là “nhỏ như con thỏ” (ngôn ngữ của người trong nước) này lại được làm rùm beng như thể một chuyện “động trời”. Không những chỉ báo chí hải ngoại đưa tin, báo chí trong nước đưa tin, rồi còn thái độ phản ứng dữ dội của cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose”, và phát ngôn chính thức của Bộ Ngoại Giao của ngụy quyền VGCS. Hồ Phương chỉ là 1 du sinh nhỏ nhoi, từ trong nước qua San Jose du học, vậy mà dành được nhiều ưu ái quan tâm của ngụy quyền VGCS đến vậy sao? tại sao cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” lại lớn tiếng bênh vực cho Hồ Phương đến vậy? Tất nhiên mọi chuyện đều phải có nguyên nhân của nó, người Việt hay nói “không có lửa, làm sao có khói” là vậy.
Trước hết xin có vài lời nhận xét về bản thân du sinh Hồ Phương. Tôi không biết Hồ Phương là con cái nhà ai? qua Hoa Kỳ du học ở dạng gì (tư phí? học bổng của ngụy quyền VGCS?) tuy nhiên việc Hồ Phương có mặt được ở Hoa Kỳ cho thấy Hồ Phương phải là con cái của những loại có “máu mặt” nói theo ngôn ngữ trong nước là thành phần 5C nghĩa là “con cháu các chó (cụ) cả”. Tất nhiên Hồ Phương không thể là sinh viên nhận học bổng trực tiếp từ chính phủ Hoa Kỳ hay các quỹ học bổng của Hoa Kỳ được vì chính Hồ Phương tự thú là không rành tiếng anh.
Hồ Phương cũng có những phản ứng rất “cậu tú” của những gia đình được coi là có quyền chức hay có tiền dưới chế độ cai trị của ngụy quyền VGCS. Khi bạn của Hồ Phương chỉ đùa bằng cách bỏ bánh xà bông lên miếng thịt bò, Hồ Phương đã cầm dao chỉ vào mặt bạn và nói “ở nước nhà, là tao giết mày rồi” (nhiều tờ báo dịch tiếng Anh ra Việt rằng “ở nước tôi, thì tôi giết anh” - nghe thối không thể chịu được, có người Việt nào nói như vậy không?). Cái kiểu coi trời bằng vung, và sống trên tiền là hành xử của đám “cậu tú”, “cô chiêu” dưới chế độ VGCS. Chỉ có chúng mới có kiểu khinh thường mạng sống của kẻ khác đến như vậy, nói rõ hơn đây là sản phẩm tiêu biểu của kiểu đào tạo “trồng người” kiểu Hồ quốc tặc. Hành động của Hồ Phương cũng rất dễ hiểu nếu quý vị so sánh những chuyện ví dụ như con trai thằng VG Phan Văn Khải rút súng bắn con trai thằng VG Phạm Thế Duyệt vì tranh gái, hoặc đám con gái 16 tuổi lái chiếc BMW 400 ngàn USD gây tại nạn tan tành chiếc xe rồi ung dung bỏ đi, hay khi đi đua xe máy bị bắt và tịch thu xe thì các “người hùng” (mà “anh hùng” Lý Tống rất kỳ vọng trong công cuộc đấu tranh dân chủ cho đất nước) nhơn nhơn không chút hối hận và thêm nữa còn được các bà mẹ cỗ vũ bằng cách an ủi “thôi về đi, mẹ sẽ mua cho con xe khác đẹp hơn” chưa kể là tất nhiên trước đó đã được các ông bố phone đi khắp nơi nhờ quen biết để xin bảo lãnh cho người và xe được an toàn trở về.
Với thói quen sống được nuông chiều và cứ mỗi lần mắc lỗi là lại được thỏa mãn yêu cầu lớn hơn, nên phản ứng dọa giết bạn cùng phòng vì 1 trò đùa cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa tôi dám chắc rằng Hồ Phương dám làm thật nếu như người bạn kia dám làm thế khi ở Việt Nam, bởi vì tại sao phải nói “nếu ở nước nhà”? nghĩa là hiện nay đang ở Mỹ, luật pháp Mỹ rất nghiêm và “ông bô”, “bà bô” (ngôn nhữ của các “cậu ấm”, “cô chiêu” VGCS) của tao không ở đây nên tao không thể giết mày, chứ ở Việt Nam tao làm được, và làm được mà tao không sao hết. Thêm 1 điều nữa do thói quen “làm luật” với “ông bô”, “bà bô” bằng cách lăn kềnh ra, dẫy đành đạch, rồi la khóc ra chiều đau đớn lắm, nên cũng là dễ hiểu cho hành động của Hồ Phương khi bị cảnh sát đến bắt, và chính vì hành động kiểu này đã bị cảnh sát buộc phải khống chế bằng vũ lực. Tóm lại Hồ Phương thuộc loại con nhà có uy quyền hoặc có nhiều tiền do đi làm Việt Gian và được nuông chiều đến mức hư hỏng, mất dạy, và côn đồ. Tôi dám chắc đến 90% rằng hắn được cho sang Hoa Kỳ du học là 1 hình thức giáo dục khi “ông bô”, “bà bô” hắn bất lực trong việc dạy dỗ hắn. Những thành phần kiểu như Hồ Phương vẫn đang được rất nhiều kẻ kỳ vọng , kiểu như đám chống cộng xôi thịt ở Hải Ngoại lý luận rằng “được ra nước ngoài học tập, mở mang đầu óc, thấy được dân chủ trên đất nước Hoa Kỳ, thì sau này sẽ bớt mọi rợ đi”. Hoặc như GS cò mồi Hoàng Tụy vừa rồi với ý kiến thay đổi cơ bản nền giáo dục trong nước để làm sống lại nguồn nhân lực quốc gia bằng cách tìm ra những người lãnh đạo có thực tài và tâm huyết, Hồ Phương chắc cũng là một kiểu mẫu mà Hoàng Tụy đang chờ đợi vì hắn được đào tạo tại Hoa Kỳ.
Chuyện chỉ có vậy, một chuyện rất nhỏ, vài cái bạt tai, vài cú đánh vì không tuân lệnh cảnh sát thôi, nhưng đã có những người “Việt tại San Jose” đánh hơi thấy được rất nhanh và 1 luật sư nào đó tên Nguyễn Hoàng Duyên đã mua lại đoạn video để tung lên báo chí, để rồi sau đó báo chí tại Hải Ngoại tạo ra thành “làn sóng phẫn nộ” và Bộ Ngoại Giao của NQVGCS (ngụy quyền việt gian cộng sản) quan tâm chú ý đặc biệt với sự phát ngôn chính thức của vẹm mái Nguyễn Phương Nga. Tại sao hàng ngàn cô dâu tại Hàn Quốc, Đài Loan đang bị ngược đãi, có người phải nhảy lầu tự tử, hàng ngàn người đang lao động tại Malaysia bị cưỡng bức lao động quá sức, các ngư phủ bị Tàu Cộng bắt cóc đánh đập, phá thuyền bè, rồi những người đi làm thuê giúp việc tại Lebanon cần bảo vệ di chuyển khi có chiến tranh thì Bộ Ngoại Giao NQVGCS không chú ý? Câu trả lời là những chuyện dân đen đó không có lợi cho tập đoàn VGCS, nhưng chuyện Hồ Phương thì có lợi cho chúng.
Nên nhớ rằng dưới chế độ VGCS chuyện phát ngôn của Bộ Ngoại Giao không phải chỉ đơn giản là do Bộ Ngoại Giao quyết định, nghĩa là những lời từ miệng con VG mái Nguyễn Phương Nga không phải chỉ là do tối cao quyết định của VG Phạm Gia Khiêm, mà là do sự thống nhất của Bộ Chính Trị, hoặc chí ít là có sự thảo luận của Ban Bí Thư. Hồ Phương nếu có là con cái cấp bự thì cũng như trường hợp của VG Phạm Thế Duyệt, bố của hắn đành ngậm tăm chịu dựng chứ không dám lên tác động để Bộ Ngoại Giao có sự can thiệp. Dưới chế độ VGCS mọi quyết định đều có sự làm việc tập thể, như vậy cũng là để không có ai phải chịu trách nhiệm trước hậu quả của việc làm và đồng thời là cơ hội để các VG “đồng chí” (đấu tranh) với nhau. Trường hợp của Lê Khả Phiêu là 1 ví dụ, hoàn thành chuyện dâng đất cho Tàu Cộng ở biên giới phía Bắc hắn bị các “đồng chí” của hắn lôi ra làm thịt tại Đại Hội Trù Bị IX, nhưng do quyết định đó đã được thông quan tại Bộ Chính Trị nên hắn công khai nói “việc này tôi thực hiện quyết định của BCT chứ đâu mình tôi” làm cho phe Anh-Mười phải cứng lưỡi đành chuyển hướng sang chuyện “Thanh Hóa hóa” của hắn. Điều này thêm 1 lần chứng minh cho chúng ta thấy tính chất VG của tập đoàn VGCS, không chỉ vài thằng chóp bu trong BCT như con chim mồi Bùi Tín vẫn hót.
Đối với những tên VG có quyền chức càng cao bao nhiêu thì sự yên bình của cái ghế ngồi càng quan trọng với chúng bấy nhiêu. Đã có nhiều thằng VG gộc, vì muốn leo cao hơn trong hệ thống quyền lực của tập đoàn VGCS bèn ra vẻ liêm khiết trong sạch bằng cách đưa con cái của chúng ra vung sâu, vùng xa làm việc để tạo credit cho chúng… giữ ghế. Nhưng ngờ đâu với cái thói nuông chiều, sống trên tiền của các “cậu ấm”, “cô chiêu” chúng nhanh chóng hư hỏng hơn, tỷ dụ như sa vào hút sách, chích choác, thành ra sau khi bố được thăng chức thì con bị nghiện xì ke vô phương cứu chữa. Đưa đến trại cai nghiện thì bỉ mặt bố, mà giữ ở nhà thì ngày một nghiện nặng hơn. Chính vì sự đấu đá khốc liệt trong bộ máy quyền lực của tập đoàn VGCS như vậy mà không it những thằng đại VG chấp nhận hy sinh ngay cả vợ con của chúng. Nếu Hồ Phương có vì là 1 con cái của thằng đại VG nào đó thì chúng cũng không vì thế mà ra tay con trai của chúng. VGCS lên tiếng cho Hồ Phương vì lý do hoàn toàn khác.
Sở dĩ VGCS chộp ngay lấy sự kiện Hồ Phương là vì tháng 9 vừa rồi sau báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chúng đã la ó phản đối rằng đó là một báo cáo sai sự thật rằng chưa khách quan vv… và vv… Mặc dù không bị đưa ngược trở lại danh sách CPC tuy nhiên, chúng cũng không khỏi ấm ức. Tất nhiên là như vậy, bởi lẽ chúng quen nghe những cụm từ ngoại giao như “đánh giá cao sự phát triển của Việt Nam”, “tiến tới hợp tác toàn diện”, “đối tác chiến lược”, “hợp tác lâu dài”, hay “tôn trọng chủ quyền của nhau” vv… Tất nhiên, những màn phản ứng của VGCS và Hoa Kỳ cũng chỉ là màn kịch để bịp dân đen VN mà thôi, như kiểu “bà đưa chân giò thì ông thò chai rượu”. Muốn chơi với Hoa Kỳ, nhưng trên danh nghĩa thực tế vẫn là 1 đám mọi rợ với cách xử sự bị coi là rừng rú, vì không biết đến nhân quyền, nên VGCS cần và rất cần đến những vụ như Hồ Phương để làm khó dễ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Trong suy nghĩ của chúng chỉ vài hành động là đã có thể chứng minh được bản chất, thực tế chúng không hiểu được rằng chuyện của cảnh sát không liên quan gì đến ngoại giao cả, pháp luật hay sự công bằng thuộc về sự phán xử tại Tòa Án và cho dù có hiểu hay không thì việc la lối lên như vậy theo chúng cũng là có một lợi thế nhất định nào đó. Biết bao nhiêu, sinh viên bị cảnh sát Nga đánh đập tới chết mà tụi nó cũng làm thinh đó thôi. Nếu nhìn những hành động của chúng mà quên đi bản chất VG của chúng thì không thể hiểu được việc làm của tập đoàn VGCS.
Hành động của bọn VGCS thì đã rõ, vậy còn cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose”? Thực chất nếu hiểu cụm tự “cộng đồng người Việt tai San Jose” có thể hiểu theo 3 cách. Cách thứ nhất là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cách đây hơn 30 năm đã bất chấp mạng sống vượt biển để đi tìm tự do nay đã chuyển hướng, trở cờ bằng việc “đấu tranh chính trị” với VGCS qua chiêu bài dân chủ hóa để canh tân đất nước. Cách hiểu thứ 2 là cộng đồng của những thành phần đã ra đi theo nhiều cách thức khác nhau với mục đích làm công tác chiêu dụ đầu tư, ngoại vận, tuyên truyền văn hóa để làm vững mạnh “Đảng”. Cách hiểu thứ 3 là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS nhưng đã bị thâm nhập trở thành 1 thứ hổ lốn vàng thau lẫn lộn. Nếu theo 2 cách hiểu thứ nhất và thứ 2, thì qua việc Hồ Phương cho thấy cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” đã hoàn thành xuất sắc công việc của chó săn trung thành bảo vệ tính mạng cho “cháu ngoan bac Hồ” và góp phần xây dựng “Đảng” để ngày thêm vững mạnh, chống chọi hữu hiệu với các “thế lực thù địch”. Hành động của cái gọi là “cộng đồng” ấy là chuyện không quá khó hiểu vì lẽ dĩ nhiên chúng đã tự đầu hàng, khuất phục VGCS, hoặc lý do tồn tại của nó là 1 trong những tổ chức của VGCS ở hải ngoại, nhằm phục vụ tập đoàn VGCS với chiến lược đối ngoại của VGCS ở hải ngoại.
Nếu là cách hiểu thứ 3 thì đây thực sự là một sự nguy hiểm, đặc biệt sau sự kiện của Hồ Phương, điều đó cho thấy toàn bộ cái gọi là cộng đồng người Việt ty. nạn cộng sản chân chính đã bị xâm nhập, cô lập hóa để điều khiển theo hướng trở thành các cộng đồng “Việt Kiều” ở hải ngoại, và tụi VGCS đang xử dụng những danh nghĩa như vậy để phục vụ cho lợi ích làm VG của chúng. Đây không phải là một dự báo hoặc chỉ là một phản ánh thực tế mà đã trở thành 1 sự thật cay đắng rằng, người Việt tỵ nạn CS đang dần quên đi mình là ai? mục đích của sự tồn tại bản thân? ý nghĩa của sự tồn tại đó, nói một cách dễ hiểu hơn là người Việt tỵ nạn CS đang thua VGCS ngay tại ngôi nhà của mình. Nếu là những người Việt tỵ nạn CS chân chính chúng ta không có lý do gì để bênh vực cho 1 thằng mất dạy, côn đồ như thằng Hồ Phương, trái lại chúng ta nhận diện rõ những kẻ đang ủng hộ nó là ai? đấu tranh với chúng. Không những thế cần phải ủng hộ cảnh sát San Jose để loại những kẻ “cháu ngoan bác Hồ” như thằng Hồ Phương ra khỏi cộng đồng, cô lập bọn chó săn VGCS tại hải ngoại. Nói ra lúc này đã là muộn, nhưng nếu không hành động thì sự bành trướng của chó săn VGCS sẽ lan rộng nhanh chóng và thôn tính toàn bộ cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cũng giống như triệu chứng di căn của căn bệnh ung thư vậy.
Trọng Tín (Kyoto)
Kính thưa qúy vị độc giả,
Nhẽ ra tôi không muốn làm mất thì giờ quý báu của qúy vị về chuyên tên du sinh Hồ Phương nào đó bởi đã có quá nhiều bàn luận về vấn đề này, tuy nhiên những phản ứng xung quanh sự kiện này không khỏi làm chúng ta suy nghĩ. Bài viết này không nhằm mục đích khai thác chuyện phân tích xem bên nào đúng, bên nào sai, hoặc bàn về khía cạnh tôn trọng nhân quyền hay không trong quá trình thi hành và bảo vệ pháp luật tại Hoa Kỳ, mà nhắm vào những phản ứng kỳ lạ của những người được gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” và tụi VGCS.
Như quý vị đã biết, du sinh Hồ Phương bị cảnh sát San Jose bắt vì tội đe dọa tính mạng đến bạn của hắn, nhưng hắn lại tỏ thái độ bất hợp tác với cảnh sát bằng kiểu lăn ra ăn vạ, la lối um sùm (xin mời xem lại kỹ đoạn video trên youtube), tất nhiên là với cách hành xử như vậy thì tất nhiên là phải nhận vài cái bạt tai, hay dùi cui (baton), hay ăn roi điện (taser) vv… đó cũng là lẽ thường trong hành xử của cảnh sát khi những đối tượng bị tình nghi là tội phạm không chịu tuân theo yêu cầu chấp hành hành pháp luật, nói cách khác là chống lại người thi hành công vụ. Tuy nhiên, sự việc có thể coi là “nhỏ như con thỏ” (ngôn ngữ của người trong nước) này lại được làm rùm beng như thể một chuyện “động trời”. Không những chỉ báo chí hải ngoại đưa tin, báo chí trong nước đưa tin, rồi còn thái độ phản ứng dữ dội của cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose”, và phát ngôn chính thức của Bộ Ngoại Giao của ngụy quyền VGCS. Hồ Phương chỉ là 1 du sinh nhỏ nhoi, từ trong nước qua San Jose du học, vậy mà dành được nhiều ưu ái quan tâm của ngụy quyền VGCS đến vậy sao? tại sao cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” lại lớn tiếng bênh vực cho Hồ Phương đến vậy? Tất nhiên mọi chuyện đều phải có nguyên nhân của nó, người Việt hay nói “không có lửa, làm sao có khói” là vậy.
Trước hết xin có vài lời nhận xét về bản thân du sinh Hồ Phương. Tôi không biết Hồ Phương là con cái nhà ai? qua Hoa Kỳ du học ở dạng gì (tư phí? học bổng của ngụy quyền VGCS?) tuy nhiên việc Hồ Phương có mặt được ở Hoa Kỳ cho thấy Hồ Phương phải là con cái của những loại có “máu mặt” nói theo ngôn ngữ trong nước là thành phần 5C nghĩa là “con cháu các chó (cụ) cả”. Tất nhiên Hồ Phương không thể là sinh viên nhận học bổng trực tiếp từ chính phủ Hoa Kỳ hay các quỹ học bổng của Hoa Kỳ được vì chính Hồ Phương tự thú là không rành tiếng anh.
Hồ Phương cũng có những phản ứng rất “cậu tú” của những gia đình được coi là có quyền chức hay có tiền dưới chế độ cai trị của ngụy quyền VGCS. Khi bạn của Hồ Phương chỉ đùa bằng cách bỏ bánh xà bông lên miếng thịt bò, Hồ Phương đã cầm dao chỉ vào mặt bạn và nói “ở nước nhà, là tao giết mày rồi” (nhiều tờ báo dịch tiếng Anh ra Việt rằng “ở nước tôi, thì tôi giết anh” - nghe thối không thể chịu được, có người Việt nào nói như vậy không?). Cái kiểu coi trời bằng vung, và sống trên tiền là hành xử của đám “cậu tú”, “cô chiêu” dưới chế độ VGCS. Chỉ có chúng mới có kiểu khinh thường mạng sống của kẻ khác đến như vậy, nói rõ hơn đây là sản phẩm tiêu biểu của kiểu đào tạo “trồng người” kiểu Hồ quốc tặc. Hành động của Hồ Phương cũng rất dễ hiểu nếu quý vị so sánh những chuyện ví dụ như con trai thằng VG Phan Văn Khải rút súng bắn con trai thằng VG Phạm Thế Duyệt vì tranh gái, hoặc đám con gái 16 tuổi lái chiếc BMW 400 ngàn USD gây tại nạn tan tành chiếc xe rồi ung dung bỏ đi, hay khi đi đua xe máy bị bắt và tịch thu xe thì các “người hùng” (mà “anh hùng” Lý Tống rất kỳ vọng trong công cuộc đấu tranh dân chủ cho đất nước) nhơn nhơn không chút hối hận và thêm nữa còn được các bà mẹ cỗ vũ bằng cách an ủi “thôi về đi, mẹ sẽ mua cho con xe khác đẹp hơn” chưa kể là tất nhiên trước đó đã được các ông bố phone đi khắp nơi nhờ quen biết để xin bảo lãnh cho người và xe được an toàn trở về.
Với thói quen sống được nuông chiều và cứ mỗi lần mắc lỗi là lại được thỏa mãn yêu cầu lớn hơn, nên phản ứng dọa giết bạn cùng phòng vì 1 trò đùa cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa tôi dám chắc rằng Hồ Phương dám làm thật nếu như người bạn kia dám làm thế khi ở Việt Nam, bởi vì tại sao phải nói “nếu ở nước nhà”? nghĩa là hiện nay đang ở Mỹ, luật pháp Mỹ rất nghiêm và “ông bô”, “bà bô” (ngôn nhữ của các “cậu ấm”, “cô chiêu” VGCS) của tao không ở đây nên tao không thể giết mày, chứ ở Việt Nam tao làm được, và làm được mà tao không sao hết. Thêm 1 điều nữa do thói quen “làm luật” với “ông bô”, “bà bô” bằng cách lăn kềnh ra, dẫy đành đạch, rồi la khóc ra chiều đau đớn lắm, nên cũng là dễ hiểu cho hành động của Hồ Phương khi bị cảnh sát đến bắt, và chính vì hành động kiểu này đã bị cảnh sát buộc phải khống chế bằng vũ lực. Tóm lại Hồ Phương thuộc loại con nhà có uy quyền hoặc có nhiều tiền do đi làm Việt Gian và được nuông chiều đến mức hư hỏng, mất dạy, và côn đồ. Tôi dám chắc đến 90% rằng hắn được cho sang Hoa Kỳ du học là 1 hình thức giáo dục khi “ông bô”, “bà bô” hắn bất lực trong việc dạy dỗ hắn. Những thành phần kiểu như Hồ Phương vẫn đang được rất nhiều kẻ kỳ vọng , kiểu như đám chống cộng xôi thịt ở Hải Ngoại lý luận rằng “được ra nước ngoài học tập, mở mang đầu óc, thấy được dân chủ trên đất nước Hoa Kỳ, thì sau này sẽ bớt mọi rợ đi”. Hoặc như GS cò mồi Hoàng Tụy vừa rồi với ý kiến thay đổi cơ bản nền giáo dục trong nước để làm sống lại nguồn nhân lực quốc gia bằng cách tìm ra những người lãnh đạo có thực tài và tâm huyết, Hồ Phương chắc cũng là một kiểu mẫu mà Hoàng Tụy đang chờ đợi vì hắn được đào tạo tại Hoa Kỳ.
Chuyện chỉ có vậy, một chuyện rất nhỏ, vài cái bạt tai, vài cú đánh vì không tuân lệnh cảnh sát thôi, nhưng đã có những người “Việt tại San Jose” đánh hơi thấy được rất nhanh và 1 luật sư nào đó tên Nguyễn Hoàng Duyên đã mua lại đoạn video để tung lên báo chí, để rồi sau đó báo chí tại Hải Ngoại tạo ra thành “làn sóng phẫn nộ” và Bộ Ngoại Giao của NQVGCS (ngụy quyền việt gian cộng sản) quan tâm chú ý đặc biệt với sự phát ngôn chính thức của vẹm mái Nguyễn Phương Nga. Tại sao hàng ngàn cô dâu tại Hàn Quốc, Đài Loan đang bị ngược đãi, có người phải nhảy lầu tự tử, hàng ngàn người đang lao động tại Malaysia bị cưỡng bức lao động quá sức, các ngư phủ bị Tàu Cộng bắt cóc đánh đập, phá thuyền bè, rồi những người đi làm thuê giúp việc tại Lebanon cần bảo vệ di chuyển khi có chiến tranh thì Bộ Ngoại Giao NQVGCS không chú ý? Câu trả lời là những chuyện dân đen đó không có lợi cho tập đoàn VGCS, nhưng chuyện Hồ Phương thì có lợi cho chúng.
Nên nhớ rằng dưới chế độ VGCS chuyện phát ngôn của Bộ Ngoại Giao không phải chỉ đơn giản là do Bộ Ngoại Giao quyết định, nghĩa là những lời từ miệng con VG mái Nguyễn Phương Nga không phải chỉ là do tối cao quyết định của VG Phạm Gia Khiêm, mà là do sự thống nhất của Bộ Chính Trị, hoặc chí ít là có sự thảo luận của Ban Bí Thư. Hồ Phương nếu có là con cái cấp bự thì cũng như trường hợp của VG Phạm Thế Duyệt, bố của hắn đành ngậm tăm chịu dựng chứ không dám lên tác động để Bộ Ngoại Giao có sự can thiệp. Dưới chế độ VGCS mọi quyết định đều có sự làm việc tập thể, như vậy cũng là để không có ai phải chịu trách nhiệm trước hậu quả của việc làm và đồng thời là cơ hội để các VG “đồng chí” (đấu tranh) với nhau. Trường hợp của Lê Khả Phiêu là 1 ví dụ, hoàn thành chuyện dâng đất cho Tàu Cộng ở biên giới phía Bắc hắn bị các “đồng chí” của hắn lôi ra làm thịt tại Đại Hội Trù Bị IX, nhưng do quyết định đó đã được thông quan tại Bộ Chính Trị nên hắn công khai nói “việc này tôi thực hiện quyết định của BCT chứ đâu mình tôi” làm cho phe Anh-Mười phải cứng lưỡi đành chuyển hướng sang chuyện “Thanh Hóa hóa” của hắn. Điều này thêm 1 lần chứng minh cho chúng ta thấy tính chất VG của tập đoàn VGCS, không chỉ vài thằng chóp bu trong BCT như con chim mồi Bùi Tín vẫn hót.
Đối với những tên VG có quyền chức càng cao bao nhiêu thì sự yên bình của cái ghế ngồi càng quan trọng với chúng bấy nhiêu. Đã có nhiều thằng VG gộc, vì muốn leo cao hơn trong hệ thống quyền lực của tập đoàn VGCS bèn ra vẻ liêm khiết trong sạch bằng cách đưa con cái của chúng ra vung sâu, vùng xa làm việc để tạo credit cho chúng… giữ ghế. Nhưng ngờ đâu với cái thói nuông chiều, sống trên tiền của các “cậu ấm”, “cô chiêu” chúng nhanh chóng hư hỏng hơn, tỷ dụ như sa vào hút sách, chích choác, thành ra sau khi bố được thăng chức thì con bị nghiện xì ke vô phương cứu chữa. Đưa đến trại cai nghiện thì bỉ mặt bố, mà giữ ở nhà thì ngày một nghiện nặng hơn. Chính vì sự đấu đá khốc liệt trong bộ máy quyền lực của tập đoàn VGCS như vậy mà không it những thằng đại VG chấp nhận hy sinh ngay cả vợ con của chúng. Nếu Hồ Phương có vì là 1 con cái của thằng đại VG nào đó thì chúng cũng không vì thế mà ra tay con trai của chúng. VGCS lên tiếng cho Hồ Phương vì lý do hoàn toàn khác.
Sở dĩ VGCS chộp ngay lấy sự kiện Hồ Phương là vì tháng 9 vừa rồi sau báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chúng đã la ó phản đối rằng đó là một báo cáo sai sự thật rằng chưa khách quan vv… và vv… Mặc dù không bị đưa ngược trở lại danh sách CPC tuy nhiên, chúng cũng không khỏi ấm ức. Tất nhiên là như vậy, bởi lẽ chúng quen nghe những cụm từ ngoại giao như “đánh giá cao sự phát triển của Việt Nam”, “tiến tới hợp tác toàn diện”, “đối tác chiến lược”, “hợp tác lâu dài”, hay “tôn trọng chủ quyền của nhau” vv… Tất nhiên, những màn phản ứng của VGCS và Hoa Kỳ cũng chỉ là màn kịch để bịp dân đen VN mà thôi, như kiểu “bà đưa chân giò thì ông thò chai rượu”. Muốn chơi với Hoa Kỳ, nhưng trên danh nghĩa thực tế vẫn là 1 đám mọi rợ với cách xử sự bị coi là rừng rú, vì không biết đến nhân quyền, nên VGCS cần và rất cần đến những vụ như Hồ Phương để làm khó dễ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Trong suy nghĩ của chúng chỉ vài hành động là đã có thể chứng minh được bản chất, thực tế chúng không hiểu được rằng chuyện của cảnh sát không liên quan gì đến ngoại giao cả, pháp luật hay sự công bằng thuộc về sự phán xử tại Tòa Án và cho dù có hiểu hay không thì việc la lối lên như vậy theo chúng cũng là có một lợi thế nhất định nào đó. Biết bao nhiêu, sinh viên bị cảnh sát Nga đánh đập tới chết mà tụi nó cũng làm thinh đó thôi. Nếu nhìn những hành động của chúng mà quên đi bản chất VG của chúng thì không thể hiểu được việc làm của tập đoàn VGCS.
Hành động của bọn VGCS thì đã rõ, vậy còn cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose”? Thực chất nếu hiểu cụm tự “cộng đồng người Việt tai San Jose” có thể hiểu theo 3 cách. Cách thứ nhất là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cách đây hơn 30 năm đã bất chấp mạng sống vượt biển để đi tìm tự do nay đã chuyển hướng, trở cờ bằng việc “đấu tranh chính trị” với VGCS qua chiêu bài dân chủ hóa để canh tân đất nước. Cách hiểu thứ 2 là cộng đồng của những thành phần đã ra đi theo nhiều cách thức khác nhau với mục đích làm công tác chiêu dụ đầu tư, ngoại vận, tuyên truyền văn hóa để làm vững mạnh “Đảng”. Cách hiểu thứ 3 là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS nhưng đã bị thâm nhập trở thành 1 thứ hổ lốn vàng thau lẫn lộn. Nếu theo 2 cách hiểu thứ nhất và thứ 2, thì qua việc Hồ Phương cho thấy cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” đã hoàn thành xuất sắc công việc của chó săn trung thành bảo vệ tính mạng cho “cháu ngoan bac Hồ” và góp phần xây dựng “Đảng” để ngày thêm vững mạnh, chống chọi hữu hiệu với các “thế lực thù địch”. Hành động của cái gọi là “cộng đồng” ấy là chuyện không quá khó hiểu vì lẽ dĩ nhiên chúng đã tự đầu hàng, khuất phục VGCS, hoặc lý do tồn tại của nó là 1 trong những tổ chức của VGCS ở hải ngoại, nhằm phục vụ tập đoàn VGCS với chiến lược đối ngoại của VGCS ở hải ngoại.
Nếu là cách hiểu thứ 3 thì đây thực sự là một sự nguy hiểm, đặc biệt sau sự kiện của Hồ Phương, điều đó cho thấy toàn bộ cái gọi là cộng đồng người Việt ty. nạn cộng sản chân chính đã bị xâm nhập, cô lập hóa để điều khiển theo hướng trở thành các cộng đồng “Việt Kiều” ở hải ngoại, và tụi VGCS đang xử dụng những danh nghĩa như vậy để phục vụ cho lợi ích làm VG của chúng. Đây không phải là một dự báo hoặc chỉ là một phản ánh thực tế mà đã trở thành 1 sự thật cay đắng rằng, người Việt tỵ nạn CS đang dần quên đi mình là ai? mục đích của sự tồn tại bản thân? ý nghĩa của sự tồn tại đó, nói một cách dễ hiểu hơn là người Việt tỵ nạn CS đang thua VGCS ngay tại ngôi nhà của mình. Nếu là những người Việt tỵ nạn CS chân chính chúng ta không có lý do gì để bênh vực cho 1 thằng mất dạy, côn đồ như thằng Hồ Phương, trái lại chúng ta nhận diện rõ những kẻ đang ủng hộ nó là ai? đấu tranh với chúng. Không những thế cần phải ủng hộ cảnh sát San Jose để loại những kẻ “cháu ngoan bác Hồ” như thằng Hồ Phương ra khỏi cộng đồng, cô lập bọn chó săn VGCS tại hải ngoại. Nói ra lúc này đã là muộn, nhưng nếu không hành động thì sự bành trướng của chó săn VGCS sẽ lan rộng nhanh chóng và thôn tính toàn bộ cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cũng giống như triệu chứng di căn của căn bệnh ung thư vậy.
Sunday, November 22, 2009
NGHỊ QUYẾT 36 THẮNG LỚN
(tiếp theo và hết)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Tác dụng gây phân hóa
Điều đáng lo ngại nhất cho công cuộc chống cộng là cái nón cối, biểu tượng của NQ36, đã trở thành một thứ vũ khí giết người rất nguy hiểm trong cộng đồng chúng ta. Một người nào đó không phải là CS bị đội cái nón cối lên đầu là chết bỏ mẹ rồi. Dư luận thiếu hiểu biết cứ thế mà đâm, chém, bắn, giết cách nào tùy ý. Sự thật không phủ nhận được là nạn chụp nón cối lên đầu nhau đã trở thành loạn. Tình trạng này càng ngày càng làm phân hóa cộng đồng, làm chán nản tất cả mọi người có thiện chí, và tất nhiên chỉ có VGCS được hưởng lợi. Có trường hợp kẻ bị đội nón cối là CS thiệt. Nhưng cũng chắc chắn có trường hợp sai. Sai không ít. Có người than đây là cuộc chiến phe mình đánh phe ta. Cũng có phần đúng. VGCS giống như kẻ đứng ngoài, thản nhiên. Chúng không trực tiếp nhúng tay vào mà chỉ khoanh tay đứng nhìn chúng ta đấu đá nhau như người La Mã xưa xem giác đấu tại hí trường Colosseum. Thật sự là như thế.
Tác dụng của NQ36 xem ra đã định hướng được đường lối chống cộng của không ít các thành phần trong cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại. Kể từ khi có NQ36, cộng đồng tỵ nạn đã hết còn thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất lập trường và đường lối. Hiệu lực của Nghị Quyết là nó biến đổi khuynh hướng chống cộng thành chống đối lẫn nhau trong cộng đồng. Về điểm này hiện thấy có 3 khuynh hướng khá rõ rệt: chống theo cảm tính, chống theo phe cánh, và chống vì cảm thấy bất lực.
1. Chống theo cảm tính
Khuynh hướng chống cộng theo cảm tính làm phát sinh ra tinh thần suy tôn lãnh tụ. Sau khi TT Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết chết, đất nước không còn lãnh đạo. Các lãnh tụ đảng phái, những người chống đối TT Diệm đã có cơ hội cầm cờ trong tay nhưng đều đã không biết phất. Sự thể chứng minh họ rất dở về chính trị nhưng lại muốn làm lớn. Kết quả là họ mất niềm tin của quần chúng. Khi đã hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo chính trị ở tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu.
Việc đi tìm minh chủ là điều tốt. Nhưng về mặt chính trị, nâng con người lên hàng thần tượng và biến thành taboo thì không nên. Một khi thần tượng chỉ là một khúc gỗ rỗng ruột thì bàn thờ hương hoa bánh trái sẽ trở thành nơi cho dán chuột đến tung hoành. Thực trạng đất nước cho thấy tôn giáo lãnh đạo chính trị đã làm đất nước khốn đốn thêm. Sự thật khách quan sờ sờ chẳng mấy ai tin mà chỉ nhắm mắt tin chết vào những gì họ cảm nhận là đúng. Dân chúng và cả bọn chính khách xôi thịt chạy theo cha, sư, không cần biết lập trường và đường lối ra sao, thí dụ như:
* HT Thích Quảng Độ - HT Thích Quảng Độ chống bọn lãnh đạo Hànội thì rõ ràng rồi, nhưng nói rằng ngài chống cộng sản thì cần phải xét lại. Bởi vì, nếu HT Quảng Độ chống CS thiệt thì ngài đã không yêu cầu VGCS triệu tập và chủ sự một hội nghị gồm cả người tỵ nạn lẫn bọn VGCS. Đây là một hình thức HHHG với VGCS. Sự thể có thể hiểu là HT Quảng Độ đã mặc nhiên thừa nhận cái cơ chế gọi là đảng và nhà nước VGCS. Như thế sao bảo là HT Quảng Độ chống cộng. Việc xưa kia cũng thế. Chế độ Cộng Hòa tại miền Nam dù thế nào cũng là bước khởi đầu tốt thực thi các quyền tự do dân chủ cho người dân VN. Nếu các Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu có phạm sai lầm thì cũng chỉ nên truất phế đi thôi, tại sao HT lại tiếp tay cho VGCS triệt hạ đi cả chế độ. HT Thích Quảng Độ đã dấn thân vào việc dẹp bỏ chế độ của miền Nam. Vậy thì thật là vô lý nếu cho rằng bây giờ ngài lại tranh đấu đòi phục sinh cho cái chế độ đó. Những việc như thế làm người ta không hiểu được mục tiêu “chống” của HT Thích Quảng Độ là gì? Ngài có thực sự chống cộng không?
* Lm Phan Văn Lợi - Lm Lợi hiện nay trở thành một chính trị gia ở trong nước nhưng chạy show ăn khách tại hải ngoại, và là thần tượng chống cộng của nhiều người. Chính vì cái hào quang sáng quá nên không ai thấy bên cạnh ông linh mục lại có hai vị đại pháp sư nổi tiếng kèm hai bên. Cả hai đều xuất thân là cháu ngoan bác Hồ. Đại pháp sư Đỗ Nam Hải được VT đặc phái tả phù cho cha Lợi. Hữu bật là đại pháp sư Trần Anh Kim, nguyên trung tá chính ủy do đảng Dân Chủ cuội của Hoàng Minh Chính đặt để. Lm Nguyễn Văn Lý dốc tâm huyết gầy dựng nên khối 8406. Nay Lm Phan Văn Lợi đặt khối vào tay hai nhà phù thủy làm thành một bộ ba lãnh đạo để vô hiệu hóa hoạt động của khối và chích thuốc trợ tử cho tổ chức đấu tranh này. Đỗ Nam Hải đẩy Nguyễn Chánh Kết qua Mỹ cho bọn VT đưa lên giàn hỏa. Trần Anh Kim ký bổ nhiệm GS Nguyễn Xuân Vinh làm đại diện Khối 8406 tại Mỹ cùng với một lô thành phần bát nháo khác. GS Vinh là người thế nào và bọn bát nháo chống cộng ra làm sao thì người ta đã biết. Thực tế cho thấy, Lm Phan Văn Lợi cho dù thần thông đến đâu cũng không địch lại pháp thuật của yêu quái.
* Thứ ba, Lm Nguyễn Hữu Lễ - Cha Lễ cũng vậy. Khi ngài ngả vào bàn tay của VT thì việc đầu tiên là ngài dùng quyền năng và uy tín của một linh mục để rửa tội cho tên cáo già Hồ Chí Minh, xóa sạch đi cái đại tội Việt gian bán nước của hắn. Tên tội đồ chỉ còn trơ lại là một con người trần tục bình thường với những đam mê của nó. Sau khi xem DVD của cha Lễ, người tỵ nạn đã tối mắt rồi, còn phải bù đầu cầy cuốc nữa nên không có thì giờ đọc những tên dân chủ cuội trong nước ca tụng Hồ. Ít khi được nghe một bản hợp xướng nhịp nhàng như thế. Cuối cùng làm nổi bật lên Hồ là người có công lớn đối với đất nước. Tội của “bác” chỉ là sự thể hiện tính tự nhiên nơi con người. Luận điệu rập khuôn như VT công bố trên báo chí: Hồ Chí Minh là người có công với đất nước và đảng CS là một thành phần của dân tộc.
2. Chống theo phe cánh
Tinh thần bè phái hình như đã trở thành đặc tính của người Việt tỵ nạn hiện nay. Kết bè để chống cộng thì hết thuốc chữa. Chẳng hạn như chuyện vợ chồng ông Dương Văn Liêm, Lưu Lệ Ngọc quan hệ với VGCS đã là một sự thật hiển nhiên, được chính đương sự xác nhận trên đài VNHN. Thế mà các ông Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Đăng Tuấn vẫn cứ gân cổ lên bênh cho bằng được. Ông Nguyễn Đăng Tuấn lại là đương kim chủ tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đấy nhá. Không bè phái là gì? Sự kết bè kéo cánh của đám dân chủ cuội và bọn chống cộng bịp diễn ra khá lộ liễu.
Hiện tượng hết sức tiếu lâm mà ai cũng thấy rõ là hễ bất cứ ai đụng đến Nguyễn Chí Thiện là bà Bút Vàng nhẩy đông đổng lên bênh và chửi người ta là CS. Nhưng Nguyễn Chí Thiện là ai thì bây giờ mặt nạ của hắn đã rớt rồi. Thiện có đi diễn thuyết nhiều nơi. Đôi khi Thiện có tham gia biểu tình chống cộng. Thiện giấu đầu nhưng lại hở đuôi. Hắn lén lút theo Hoàng Minh Chính, Bùi Tín v.v. vào rừng giàn dựng ra màn kịch Tiểu Diên Hồng để HHHG với CS thì người ta đã nhìn thấy cái đuôi chồn của hắn. Chưa nói đến vụ Nguyễn Chí Thiện lý lịch bất minh, Nguyễn Chí Thiện hành động quanh co mờ ám chung quanh tập thơ Vô Đề.
Một điển hình khác về kiểu chống theo phe nhóm là trường hợp một số nhân vật vây quanh Bùi Tín tỷ như Phan Nhật Nam, Chu Tất Tiến, Trần Phong Vũ v.v.. Nhóm này bảo vệ Bùi Tín và bọn phản tỉnh cuội đỡ ồn ào hơn nhưng cũng quyết liệt lắm. Trần Phong Vũ nhất quyết rằng Bùi Tín đã hoàn toàn phản tỉnh. Thế nhưng Bùi Tín có phản tỉnh thật không thì xin xem đây. Mới ra khỏi nước Bùi Tín tuyên bố: “Tôi có vị thế của tôi, tôi có liên hệ với trong nước. Thức tỉnh trong nước là điều quan trọng. Cộng sản có những thành tích, cộng sản có những giá trị. Tôi là người cộng sản đến nay đã 45 năm. Chủ nghĩa Marx là phát minh khoa học, là một giá trị. Thuyết giá trị thặng dư của Marx là một giá trị.Duy vật biện chứng pháp là giá trị đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại.” (Báo Khỏe Đẹp, mục Sinh Hoạt Cộng Đồng, số 355 ngày 13-12-1991). Cho đến nay, lập trường Bùi Tín vẫn không thay đổi. Hắn vẫn từ chối chào lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ, vẫn giao du thân mật với đám dân chủ cuội như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Hà Sĩ Phu v.v., vẫn chẳng bao giờ tham dự các cuộc biểu tình chống cộng của người tỵ nạn. Bùi Tín phản tỉnh ở chỗ nào. Bọn chống cộng bịp ở hải ngoại không chịu hiểu rằng Bùi Tín chỉ chống những tên CS đang cầm quyền vì khác phe phái và vì tranh ăn. Bản thân Bùi Tín vẫn là một tên CS từ bản chất. Bùi Tín vẫn luôn luôn tôn thờ và bảo vệ tên tội đồ bán nước và đảng ngụy quyền tay sai của hắn.
Trong nhóm chống cộng bịp, người to tiếng là ông nhà văn Chu Tất Tiến. Ông viết cho tờ báo Người Việt. Ông tấn công CS ở tận bên VN, nhưng tên chủ báo của ông ở ngay trước mắt ông là CS thì ông lại không thấy. Ông viễn thị nặng hay là tinh thần bè phái? Chuyện ông làm dân vận bọn trẻ trong nước mới thật là lố bịch. Ông trưng dẫn lịch sử sai tùm lum. Nhà báo Nam Nhân sửa sai cho ông thì ông chụp nón cối lên đầu người ta. Ông viết Hai Bà Trưng xuất thân từ giai cấp nông dân đứng lên làm cách mạng thì bọn trẻ ở trong nước nín cười hết nổi, mà chắc nín thở luôn. Hai Bà Trưng là con gái quan Lạc Tướng ở Mê Linh, giai cấp quí tộc chứ đâu phải con nông dân. Ông Chu Tất Tiến muốn bắt chước sử gia Phạm Văn Sơn viết Hai Bà làm cách mạng. Sử gia Phạm Văn Sơn dùng chữ cách mạng theo nghĩa Hai Bà dành lại được quyền tự chủ từ chế độ Hán thuộc. Thế nhưng ông Chu Tất Tiến muốn phịa ra rằng Hai Bà là thành phần bần cố nông đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản như “Bác Hồ” của bọn trẻ trong nước. Dân vận bọn trẻ quàng khăn đỏ như thế thì hết sẩy rồi. Sự thực Hai Bà chỉ thiết lập một nhà nước phong kiến thô sơ ở nước ta sau khi đánh đuổi quân Hán, thu phục 60 thành trì, chứ đâu phải cách mạng vô sản, hữu sản gì.
3. Chống vì cảm thấy bất lực
Phải thừa nhận một sự thật là tinh thần chống cộng của cộng đồng tỵ nạn càng ngày càng yếu đi trong khi CS càng ngày càng thắng thế mặc dầu cuộc đấu tranh diễn ra ngay tại Mỹ. Như chúng tôi đã phân tích trong phần Hậu Quả Của Xâm Nhập trên đây, trong cộng đồng, một số không nhỏ đã đầu hàng VGCS vì nhiều lý do: tiền bạc, danh vọng, cảm tình gia đình, bị bắt bí v.v. Đa số chán nản buông xuôi và trùm chăn. Chỉ còn lại một thiểu số có tâm huyết vẫn kiên trì chiến đấu nhưng cảm thấy bất lực. Chiến đấu với tình trạng tâm lý như thế thật khó giữ được bình tĩnh. Rất nhiều bài viết phê phán gay gắt những khuynh hướng ngả theo CS xuất hiện trong lúc gần đây biểu lộ khuynh hướng đó. Tác giả thường bị bọn chống cộng bịp bắt bẻ là bạ cái gì cũng chửi, bạ ai cũng chống. Thử công minh một chút xem. Hoàng Minh Chính định lùa người Việt tỵ nạn vào cái tròng HHHG qua đề nghi cái bàn tròn Tiểu Diên Hồng. Chống có đúng không? Phê bình ông Nguyễn Bá Cẩn xì xụp vái lậy trước bàn thờ tên dân chủ cuội HMC. Sai ở chỗ nào? Vậy thì vấn đề không phải ai cũng chửi, cái gì cũng chống, mà là ở chỗ chửi có đúng và chống có đúng không. Dùng từ “chửi” và từ “đánh phá” để buộc tội những bài viết trung thực đã là điều bất công. Kết tội là CS lại càng bất nhân và bất công hơn nữa. Đành rằng có văn nô hoặc bồi bút len lỏi đánh phá trên các diễn đàn. Nhưng tuyệt đối không phải bài phê bình nào cũng là của CS cả. Để xác định một bài viết có do CS tung ra hay không, chỉ cần đọc nội dung của nó, phê bình đúng hay sai, có ý hướng xây dựng hay chỉ cố ý đả phá. Tiếng nói của người chính trực thường là những lời cảnh tỉnh. Mặc dù họ không phải là tiên tri, nhưng lời của họ giống như của các tiên tri Do Thái ngày xưa: thẳng thắn, mạnh bạo, và rất chói tai. Việc họ làm là cảnh giác dân chúng trước những nguy vong của đất nước.
Nếu đã nhìn nhận tình hình chống cộng và tình trạng chống nhau trong cộng đồng hiện nay đáng bi quan thì những tiếng nói phê phán trung thực nhất định là cần thiết. Thế nhưng điều hết sức bi quan là, những tên CS hoặc tay sai bị tố cáo có bằng chứng, có cơ sở thì lại không mấy người tin. Trái lại, những lời tố cáo hoặc chụp mũ nhau không dựa trên một bằng chứng nào hoặc một căn bản lý luận nào thì lại lắm người nghe theo. Lối chống cộng theo cảm tính hoặc nặng tinh thần phe phái đã trở thành khuynh hướng hành động theo định huớng đúng như CS mong muốn. Định hướng cuộc chống cộng của người tỵ nạn theo chiều hướng có lợi cho CS về lâu về dài là sách lược quan trọng của NQ36.
4. Để lật tẩy cộng sản
Để chận đứng tình trạng tai hại này, người quốc gia trước hết cần xác tín rằng có VGCS xâm nhập để cảnh giác. Vấn đề sau đó cần đặt ra là làm thế nào để có thể nhận diện chính xác được các tên VGCS và tay sai của chúng. Khó khăn của chúng ta là chẳng có tên CS nằm vùng nào mang giấy tờ tùy thân. Chúng ta cũng không có quyền hạch hỏi công chứng thư của chúng. Như vậy thì chỉ còn cách là phải căn cứ vào lập trưòng mà thẩm định. Nếu cần nữa thì phải nhờ đến túi khôn của người xưa để lại, tức là cách luận việc để biết người.
4.1 Căn cứ trên lập trường
Quốc Gia và CS là hai thực tế đối kháng lẫn nhau cả về lý thuyết lẫn hành động. Về mặt lý thuyết, xin nhấn mạnh chữ đối kháng mà không phải là đối lập. Đối kháng mang ý nghĩa phủ định và triệt tiêu lẫn nhau, trong khi đối lập chấp nhận nhau để cùng cạnh tranh sinh tồn. Lập trường của người tỵ nạn là lập trường dân tộc (quốc gia). Cộng sản là một khái niệm quốc tế, nó phủ nhận dân tộc tính nơi mỗi con người. Do đó, quốc gia và cộng sản không thể nào đứng chung và không thể nào cùng tồn tại, trái lại, luôn loại trừ nhau. Đó là khái niệm cơ bản về lằn ranh quốc gia và cộng sản.
Trong tình trạng vàng thau lẫn lộn hiện nay, căn cứ vào lập trường chính trị, tạm có thể xác định một người nào đó là ai: CS hay quốc gia, hoặc thành phần thứ ba. Thành phần nửa nạc nửa mỡ thứ ba thường tự nhận là những người đứng giữa, bao gồm những kẻ chủ trương đa nguyên đa đảng, những kẻ đấu tranh đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, nhũng kẻ thừa nhận Hồ Chí Minh có công đối với Dân Tộc v.v. Những thành phần này không hẳn là CS nhưng chắc chắn không phải quốc gia căn cứ vào khái niệm lập trường quốc, cộng vừa nói. Trên thực tế họ đã chấp nhận đầu hàng CS rồi. Họ chỉ đấu tranh đòi chia quyền và chia tiền với CS. Chủ trương của người quốc gia là phải xóa bỏ hẳn chế độ CS, nhổ tận gốc những ảnh hưởng gian ác của chúng để xây dựng một đất nước VN mới, tự do và dân chủ thực sự, hùng mạnh về kinh tế, còn phải đạo đức trong lối sống. Trong chính thể tương lai, nếu vẫn còn sự hiện diện của đảng CS thì chỉ với sức mạnh kinh tế của chúng, CS vẫn thừa sức thao túng nền chính trị quốc gia. Hiện nay, tất cả guồng máy kinh tế của đất nước đều đã nằm gọn trong tay bọn đảng viên CS rồi. Nói thế không phải để buông xuôi, mà là để biết mình, biết người hầu tìm ra cách đối phó hữu hiệu hơn. Phải tự tin vì người quốc gia có một lợi thế rất lớn, hơn CS rất nhiều. Đó là lòng dân:
Đắc cương thổ nhi thất nhân tâm, tất bại.
Thất cương thổ nhi đắc nhân tâm, tất thắng.
(được đất đai nhưng mất lòng người, tất bại. Trái lại, mất đất đai nhưng được lòng người tất thắng). Hiện nay VGCS chiếm được nước nhưng chúng đã hoàn toàn mất lòng dân. Ngược lại, người quốc gia phải lưu vong tỵ nạn nhưng vẫn được người dân trong nưóc yêu mến, hướng về. Như vậy thì tại sao chúng ta lại phải đầu hàng CS?
Sự khác biệt hệ ý thức quốc/cộng đã đưa đến cuộc chiến tranh VN trong suốt 3 chục năm và hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay. Thực tế chiến tranh VN cho thấy trên lý thuyết tuy đối kháng lẫn nhau, nhưng suốt 2/3 thế kỷ nay, không phải người Quốc Gia, mà chỉ có CS luôn truy lùng, đàn áp, bắt bớ, bỏ tù, và xâm lấn người quốc gia không ngừng nghỉ. Ngưòi quốc gia chạy ra nước ngoài rồi vẫn còn bị CS theo đuổi để chinh phục. Như thế, người quốc gia chống lại CS là chuyện bắt buộc. Về thực hành, cách thực tế nhất để phân biệt quốc gia với CS là căn cứ vào việc có chấp nhận lá Cờ Vàng hay không. Người quốc gia công nhận lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ của chế độ VNCH. Từ lập trường này, chúng ta xác định công cuộc chiến đấu chống lại chế độ VGCS là để khôi phục lại chế độ Cộng Hoà đã bị CS tiêu diệt. Mục tiêu này tồn tại ít nữa là trong giai đoạn hiện nay, khi chế độ CS không còn nữa sẽ tính sau. Đây là vấn đề đặt lằn ranh rõ ràng giữa Quốc gia và những kẻ không phải là quốc gia, nhất là CS.
4.2 Từ cái khôn của người xưa
Như đã nói, không dễ dàng xác định chắc chắn được kẻ nào là CS nằm vùng, kẻ nào là tay sai của chúng nếu chỉ căn cứ vào lập trường không thôi. Không thiếu bọn chống cộng bịp cũng phất cờ vàng, cũng hô đả đảo CS. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bất lực. Ngoài việc căn cứ trên lập trường, còn có một cách khác giúp chúng ta là làm theo sự chỉ dậy khôn ngoan của người xưa, chẳng hạn:
- châm ngôn Pháp: Cho tôi biết anh thường lui tới với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. (Dis moi qui tu frequentes, et je te dirai qui tu es), hoặc
- tục ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hay như
- lời cố TT Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm.
Việc truy tìm CS căn cứ trên lập trường và dựa vào các tiêu chí trên có thể tin là chính xác. Lấy thí dụ trường hợp Nguyễn Chí Thiện. Nếu chỉ nghe Nguyễn Chí Thiện nói thì ai cũng cho ràng hắn là một người chống cộng thiệt. Hắn chửi CS hay, chào Cờ Vàng nghiêm chỉnh, đôi khi còn tham gia biểu tình nữa. Nhưng bởi vì Nguyễn Chí Thiện luôn cặp kè với bọn VT và nhất là còn theo Hoàng Minh Chính vô núi để bàn kế hoạch Tiểu Diên Hồng thì chắc chắn hắn là một tên chống cộng bịp, nếu không muốn nói là một điệp viên nằm vùng của VGCS.
NQ36 và vai trò của Việt Tân
Nói đến NQ36 mà bỏ quên vai trò của đảng Việt Tân thì thật là một thiếu sót không thể chấp nhận được. Nếu không có đảng VT, chắc chắn VGCS không thể luồn sâu vào trong các cộng đồng tỵ nạn như hiện nay. Nói cách khác, VT chính là công cụ VGCS sử dụng để thi hành NQ36.
Không ai không biết các sách lược đấu tranh của VT đã được quảng bá rộng rãi là:
1- Đối đầu bất bạo động để tháo gỡ độc tài,
2- Xây dựng xã hội dân sự để đặt nền tảng dân chủ, và
3- Vận động toàn dân để canh tân đất nước.
Thoạt nghe, cứ tưởng như là VT chống cộng có sách lược lắm, vì đó là sách lược mà. Nhưng cái đuôi HHHG đã lại lòi ra ngay: “Do đó, ngay từ bây giờ phải tập trung nỗ lực để gầy dựng tư thế và uy tín cho Việt Tân, để trong tương lai, khi áp lực đấu tranh buộc đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận mở ra bối cảnh sinh hoạt đa nguyên, Việt Tân đã trong tư thế sẵn sàng để đối đầu với đảng CSVN trong trận thế đấu tranh chính trị công khai (phỏng vấn BS Trần Xuân Ninh)". Thì ra sách lược của VT là dọn đường về nước để đấu tranh chính trị. Nói trắng ra là bắt tay hòa hợp với VGCS. Sách lược này, nếu do một đảng phái quốc gia lương thiện có một quá trình tranh đấu già dặn kinh nghiệm thì có thể tin tưởng được phần nào, mặc dầu vẫn biết nó đáng nghi ngờ. Nhưng nó lại được quảng bá từ một tổ chức thảo khấu bất lương để bịp bợm thì không ai tin được. Điều hết sức phi lý là tổ chức này, những con người này không những đã không bị pháp luật trừng trị, mà trái lại nó vẫn mặc sức tung hoành và có vẻ còn có thế giá đối với chính quyền Mỹ.
Câu hỏi là tại sao? Và đây là câu trả lời: vì VT là tay sai, là công cụ. Tổ chức này từ bước đầu mới thành lập, hồi còn có tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN, gọi tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nó đã bị khuynh loát và thao túng bởi phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, một con người tham tiền và bịp bợm. Từ đầu thập niên 1980 đến nay (năm 2009), về danh xưng tổ chức này đã thay đổi từ Mặt Trận thành Đảng. Về mặt sinh hoạt, nó đã biến thái qua ba giai đoạn từ một tổ chức kháng chiến bịp đến hình thức mafia chuyên gây tội ác, và hiện nay là công cụ cho các thế lực chính trị sử dụng để mưu giàn dựng ra cái gọi là hòa hợp hòa giải hầu thiết lập cho VN một thể chế dân chủ cuội sau này.
1. Giai đoạn kháng chiến bịp
Giai đoạn ngắn ngủi này là lúc ông HCM còn sống. Dán cái nhãn hiệu “bịp” vào tên tuổi của một tổ chức chống cộng giải phóng quê hương thứ thiệt là phạm đại tội. Nhưng ịn lên tên MT Hoàng cơ Minh chữ “bịp” thì đúng lắm. Báo chí gọi thế. Người dân tỵ nạn gọi thế. Không phải người viết gọi thế với ý xấu, bởi vì ông HCM dựng lên Mặt Trận để bịp thiệt. Khu chiến là khu chiến giả. Kháng chiến là kháng chiến bịp. Báo kháng chiến toàn phịa tin không có. Kháng chiến quân hơn một trăm người thì khoảng một trăm là thanh niên Miên, Lào được ông HCM thuê mướn để đóng phim. Thế nhưng ông HCM đã nhân con số lên thành 10.000 tay súng. Phịa để làm gì? Câu trả lời là lời ông Minh nói với đại tá Phạm Văn Liễu như sau: “Phải tuyên bố như vậy thì đồng bào mới cho tiền.” Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số tiền đồng bào ủng hộ MT được ước lượng không dưới 10 triệu dollars. Số tiền lớn này ông HCM trao cả cho người em ruột của ông là ông Hoàng Cơ Định. Ông Định có gởi sang Thái Lan cho ông Minh 160.000 dollars để dùng cho kháng chiến, nhưng ông Minh gởi trả lại ông Định bảo cứ giữ lại tại Mỹ.
Ông HCM còn đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng khác nữa do người Mỹ thuê mướn là xâm nhập các nước Việt, Miên, Lào để tìm lính Mỹ mất tích bị nghi là vẫn còn sống. Vấn đề này báo chí có nói qua, nhưng vì là việc của CIA nên chẳng bao giờ tìm ra dấu vết. Chứng cứ là câu nói của BS Lê Văn Trực được cụ Phạm Ngọc Lũy ghi lai: “…việc anh Minh (HCM) đi Thái Lan có bàn tay Mỹ chi phối, trước sau rồi cũng làm tay sai.” (Phạm Ngọc Lũy: Hồi Ký Một Đời Người, tập II, trang 10).
Những chuyện về MT và về người chủ sự của nó là phó đề đốc HCM kể thì nhiều lắm. Tài liệu chất cao bằng đầu. Tất cả đi đến kết luận ông HCM là một con người mưu mô, xảo quyệt, phản bội đồng chí, tàn ác với đồng đội, thiếu tư cách lãnh đạo nên không làm được việc lớn, tham quyền và nhất là tham tiền. Do đó không thể có chuyện gọi là “giải phóng đất nước”. Tất cả được gói gọn trong một chữ “Bịp”.
2. Giai đoạn trở thành Mafia
Sau khi ông HCM chết, MT biến thành tổ chức mafia người Việt tại hải ngoại. Tổ chức này về mặt nổi do Nguyễn Kim Huờn túc Nguyễn Kim, một người rất ít được biết đến trước đó, lãnh đạo, nhưng mọi chuyện đều bí mật nằm dưới sự chỉ đạo của Hoàng Cơ Định, người em cùng cha khác mẹ với HCM. Định là người trước năm 1975 đã bị sa thải khỏi trường Cao Đẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Saigon vì lý do tham nhũng. Ls Hoàng Duy Hùng đã trích dẫn báo cáo của cơ quan FBI nhận định về MT như sau: MT và CS nằm vùng đã xâm nhập vào mọi lãnh vực cộng đồng, vào các nhóm du đãng, trẻ em Mỹ lai, và vị thành niên để dụ dỗ và khống chế các em gia nhập các băng đảng tội ác như làm đĩ, buôn bán ma túy và vũ khí, chuyển ngân lậu v.v. Ngoài ra MT còn bị tố cáo tội giết người như các nhà báo Đạm Phong, Lê Triết. Điều cần nhấn mạnh là ông Hoàng Duy Hùng là một luật sư tốt nghiệp và hành nghề tại Mỹ nên những tài liệu ông trưng dẫn nói rằng của cơ qua FBI phải tuyệt đối tin là đúng. Chắc chắn ông Ls Hùng không dám ăn nói bạt mạng, đùa dỡn với FBI. Lại nữa trong phiên tòa gọi là MT kiện báo chí diễn ra tại quận hạt Santa Clara ngày 12-12-1994, ông trung sĩ cảnh sát Douglas Zwemke cũng đã xác nhận rằng cảnh sát có đủ bằng chứng MT lem nhem tiền bạc, oa trữ vũ khí để uy hiếp và hăm dọa, gian lận thuế má và sổ sách.
MT bị tố cáo tất cả gồm 39 tội danh mà hầu như đều là tội đại hình. Điều không hiểu nổi là cho đến nay luật pháp nước Mỹ vẫn không điều tra và truy tố bất cứ một ai. Pháp bất vị thân. Luật pháp quốc gia có trách nhiệm phải điều tra và truy tố các kẻ phạm pháp ra tòa để buộc chúng phải đền tội. Cảnh sát nói đã có bằng chứng MT vi phạm luật. MT đông như thế, chẳng lẽ mấy chục năm qua cảnh sát không tìm ra được lấy một tên tội phạm trong đó. Chuyện như giỡn chơi, thật sự không thể nào lý giải được trừ khi chúng ta đặt nó vào cái thế của bàn cờ chính trị của VN hiện nay.
3. Giai đoạn làm công cụ
Theo lý thì MT đã phải bị giải tán và những kẻ vi phạm luật pháp đã phải bị trừng trị. Thế nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Thái độ mắt nhắm mắt mở của cơ quan an ninh Mỹ đã mở ra con đường biến MT thành công cụ để sử dụng. Phương pháp dùng người kiểu này rất thường thấy trong lãnh vực tình báo. Nó cũng không khác mấy chuyện công an CS dùng bọn côn đồ tội phạm để dẹp biểu tình của giáo dân.
Sau khi được tha bổng và được sử dung, MT mới bắt đầu lột xác biến thành đảng chính trị với cái tên là Việt Tân, công khai ra mắt tại Đức ngày 19-9-2004. Thực ra đảng VT đã được thành lập từ tháng 9-1982 gần đồng thời vói MT. Đảng và MT tuy hai nhưng chỉ là một. Chủ tịch đảng Đỗ Hoàng Điềm của VT hiện nay là một người trước đây ít có ai biết tiếng. Lý Thái Hùng, tổng bí thư, đuợc nhận diện là Bùi Minh Đoàn, và bị tố cáo là CS. Hoàng Cơ Định vẫn là người nắm giữ tiền bạc của đảng. Nhưng dư luận lại tin Nguyễn Xuân Nghĩa cháu tên cựu TBT đảng CSVN Nguyễn Văn Linh mới thực sự là linh hồn của đảng VT.
Chính phủ Mỹ sử dụng một đảng chính trị chủ trương chung sống hòa bình với CS, lại được lãnh đạo bởi các cán bộ CS thì cầm chắc là VGCS sẽ rất hài lòng. Luật pháp Mỹ không cho phép bất cứ một tổ chức nào ở Mỹ chủ trương đấu tranh lật đổ một chính phủ ngoại quốc bằng vũ lực mà nước Mỹ có thiết lập bang giao. MT chủ trương lật đổ nhà nước VGCS bằng vũ lực, do đó bắt buộc phải đổi thành đảng VT với chủ trương bắt tay hòa hơp với VGCS. Đó là lý do bắt buộc MT phải biến thành đảng VT để được phép hoạt động trên đất Mỹ. Vấn đề quan trọng ở đây là tại sao lại nói VT thực hiện NQ36 của VGCS. Để có câu trả lời, chúng ta cần trở về thời gian khoảng hơn mười năm về trước. Một lần sau khi ông Dennis Harter, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN nói chuyện với cộng đồng người tỵ nạn tại Houston, Texas, hai nhà báo Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cường viết bài tường thuật trên báo Ngày Nay nhận định rằng: nếu chúng ta đừng nghe những gì CS và HK nói, mà hãy nhìn vào những gì CS và HK làm, thì qua phần đối đáp của ông Harter, người ta có thể kết luận mà ít sợ sai lầm là hiện nay HK và VN quả thật đang cùng dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của một lộ trình Diễn Biến Hòa Bình. Kể như đã rõ ràng. Mỹ và CS bắt tay tiền chế một chế độ hòa hợp đa đảng tại VN mà VT là nhóm người được chọn lựa để làm đối lập với CS. Từ đó cho tới nay VT đã rất tích cực thi hành nhiệm vụ làm công cụ của mình. Những việc VT làm báo chí đề cập đến hàng ngày, vậy xin được miễn nhắc lại. Nói một cách tổng quát thì là một đàng ở trong nước, VT cấu kết với những thành phần dân chủ cuội trương chiêu bài tranh đấu đòi Dân Chủ. Một đàng tại hải ngoại, VT dựa vào sự yểm trợ ngầm của Mỹ, thi hành NQ36 trong cộng đồng tỵ nạn để xâm nhập, lũng đoạn, và lèo lái cộng đồng đi đến quên quá khứ, xóa hận thù hầu chấp nhận sống chung với VGCS. Đã có những chỉ dấu cho thấy các nhân vật tranh đấu trong và ngoài nước liên kết thành những tập thể đối lập giả hiệu do VT điều hợp dưới sự chỉ đạo ngầm của cả Mỹ lẫn VGCS. Đó là diễn biến hòa bình mà các ký giả Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cuờng đã nói tới.
Nên biết rằng trở ngại lớn nhất của diễn biến hòa bình là sự chống đối của người Việt tỵ nạn. VGCS coi khối người tỵ nạn là trở ngại đã đành, nhưng ngay cả chính quyền Mỹ cũng vậy. Chính quyền Mỹ sợ dư luận. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của nền dân chủ Mỹ là dư luận của quần chúng. Cả hành pháp lẫn lập pháp đều sợ dư luận, vì dư luận nói cụ thể ra là lá phiếu của cử tri. Hành pháp Mỹ dám giết tổng thống của một quốc gia, dám đem quân bắt tổng thống của nước khác đem về nhốt tại Mỹ, dám tống cổ một nước bạn thâm tình ra khỏi tòa nhà Liên Hiệp Quốc, dám xóa tên một nước có chủ quyền trên bản đồ thế giới, nhưng họ lại không dám đi ngược lại ý muốn của dân chúng Mỹ. Chính giới Mỹ sẵn sàng tạo ra dư luận để hoàn thành một mục tiêu nào đó cho mình. Phong trào phản chiến trước 1975 nếu không được thúc đẩy bới bàn tay lông lá thì khó lên cao được như đã thấy. Cho nên để thực hiện diễn biến hòa bình với VGCS, Chính phủ Mỹ trước tiên phải dẹp đi sức đấu tranh của khối người tỵ nạn. Kẻ đứng ra làm công cụ là VT. Phương pháp thông thường như đã nói trên vẫn là “Dĩ di công di”, tức là lấy tỵ nạn diệt tỵ nạn.
4. Một vấn đề ngoài lề
Bài viết đã dài. Đến đây coi như đã có thể kết thúc, chỉ còn phần kết luận. Ngưòi viết muốn nhân cơ hội đặt vấn đề với các quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đang là thành viên của đảng VT nên mới có vấn đề ngoài lề như thế này. Ý thức rằng QLVNCH trước kia và bây giờ vẫn là lưc lượng chủ lực chống cộng hữu hiệu nhất. Sự mất mát lớn lao nhất cho hàng ngũ người quốc gia yêu nước là việc một số không nhỏ quí vị quân nhân chạy theo băng đảng VT. Sự phản phúc của băng đảng VT thì đã rõ ràng, không còn gì phải nói. Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra là với tư cách là thành viên của đảng VT, việc đấu tranh của quí vị sẽ đem lại lợi ích gì cho đất nước. Quí vị đã dâng hiến cho Tổ Quốc nửa cuộc đời thanh xuân, coi như đã trả xong nợ sông núi. Không lẽ nửa quãng đời còn lại quí vị lại quay đầu lại với Tổ Quốc. Quí vị gia nhập đảng VT chính là hành vi đối đầu với Tổ Quốc, phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy.
Trước hết, quí vị đối đầu với Tổ Quốc với ảo tưởng rằng theo VT được Mỹ ủng hộ là quí vị đấu tranh cho tự do dân chủ tại VN. Quí vị lầm rồi. Bao nhiêu chuyện VGCS đàn áp nhân dân ta ở trong nước, Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ ỏ Hànội có bao giờ có biện pháp gì cụ thể giúp đâu, hay là chỉ ẫm ờ cho qua chuyện. Nhìn về quá khứ các năm 63, 75, lúc đó dù không có chuyện, chính quyền Mỹ cũng tạo ra cho có, chuyện nhỏ họ thổi lên thành chuyện lớn. Để làm gì thì mọi người đã thấy và lịch sử đã ghi chép đầy đủ. Đấy là cách thức chính quyền Mỹ giúp đỡ người quốc gia chúng ta. Người Việt tỵ nạn, nhất là các quân nhân QLVNVH cần nhìn và hiểu thấu đáo cái THẾ chính trị này. TT George W. Bush tiếp Đỗ Hoàng Điềm tại tòa Bạch Ốc được coi là một hình thức thừa nhận (endorse) VT cho người Việt tỵ nạn nhìn thấy mà theo. Nhưng đối với người tỵ nạn, hành động của Bush chẳng qua chỉ là để tưởng thưởng VT cũng giống như một ông chủ vuốt ve con chó trung thành và biết giữ nhà. Đừng có cho chuyện đó là quan trọng. Mỹ trở lại VN, đó là vì nhu cầu của nước Mỹ. VN cần Mỹ giúp, đó là một lợi ích thiết thực. Nhưng vấn đề là quan hệ và sư hợp tác hai bên đặt trên căn bản nào. Kinh nghiệm và lịch sử dậy chúng ta rằng, nếu chúng ta mạnh, người Mỹ sẽ giúp chúng ta trong tư thế bạn bè. Còn nếu chúng ta yếu, họ sẽ giúp chúng ta trên tư thế của một ông chủ đối với đầy tớ. VT làm công cụ cho một chính quyền đã bức tử chế độ VNCH tức là họ đã đối đầu với Tổ Quốc. Tin rằng Mỹ thừa nhận đảng VT tức là Mỹ giúp người quốc gia tiêu diệt CS? Xin đừng mơ ngủ nữa. Mở mắt ra mà nhìn đi.
Thứ nữa là quí vị đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình khi quí vị chạy theo VT mà quí vị không thấy. Xin hỏi VT ca ngợi VGCS là ái quốc có phải là họ gián tiếp kết án QLVNCH phản quốc không? Câu trả lời nhất định phải là đúng. Như vậy người quân nhân QLVNCH chạy theo VT là họ đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy. VT chối bỏ tư cách tỵ nạn với việc biến ngày Quốc Hận 30-4 thành ngày Tự Do cho VN. VT phỉ báng chính nghĩa quốc gia, ca tụng VGCS qua sự kiện cho tên CS Hà Dương Dực lên đài phát thanh hạ nhục QLVNCH, đề cao quân cướp VGCS. VT công nhận Hồ Chí Minh có công đối với đất nước và đảng VGCS là một thành phần dân tộc v.v. Cứ cho rằng những việc động trời đó là những sai lầm không đáng kể do đảng viên cấp dưới không ý thức đúng lập trường và đường lối của đảng. Nhưng thử hỏi khi trung ương đảng VT công khai ca tụng VGCS là ái quốc thì sao đây? Đây không phải chuyện nhỏ nhặt mà là vấn đề quan điểm, quan điểm về lòng yêu nước. Chỉ cần đặt ra một câu hỏi với VT: “thế nào là yêu nước” thì đã đủ để lột mặt nạ của VT xuống rồi. Nêu trường hợp cụ thể xem VT có cãi được không. Cách đây không lâu khi Nguyễn Hộ, một tên CS cực kỳ hung ác và khát máu chết, trung ương đảng VT tức tốc gởi đi khắp thế giới lời phân ưu với gia đình Nguyễn Hộ, ca tụng hắn là một nhà ái quốc. Nguyễn Hộ là ai thì hẳn người quốc gia ở miền Nam, nhất là vùng Saigon, Cholon không ai không biết. Hắn là kẻ giết người không run tay. Hắn công khai tuyên bố chính sách đối xử với quân, cán, chính VNCH khi hắn vào Saigon năm 1975 như sau: Nhà chúng, ta ở, vợ chúng, ta lấy, con cái chúng, ta bắt làm nô lệ, còn chúng, ta cho đi cải tạo không có ngày về. Một tên CS ác ôn như vậy mà đảng VT ca ngợi là một nhà ái quốc. Nếu Nguyễn Hộ ái quốc thì các vị tướng, tá QLVNCH như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn v.v. là thế nào? Nhất định là phản quốc chứ gì, có đúng không? Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Hộ, hai người bắn giết nhau ngoài mặt trận vì vấn đề đất nước. Nếu Nguyễn Hộ được kể là yêu nước thì Nguyễn Khoa Nam nhất định phải là phản quốc. Đấy là logic của lý luận. Lại nữa, nếu TT Nguyễn Khoa Nam, ĐT Hồ Ngọc Cẩn v.v. là phản quốc thì cả tập thể QLVNCH cũng kể là phản quốc luôn. Đây cũng là logic của lý luận. Quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đầu quân theo VT nghĩ sao đây, xin quí vị hãy lựa chọn chỗ đứng: là người “yêu nước” như tên CS ác ôn Nguyễn Hộ, hay là kẻ phản quốc như Nguyễn Khoa Nam, như Hồ Ngọc Cẩn? Nếu quí vị chọn chỗ đứng bên cạnh Nguyễn Hộ thì đích thực quí vị đã phản bội lại QLVNCH, phản bội đồng đội, và phản bội chính quí vị rồi vậy.
Kết Luận
Bài viết này chấm dứt đúng vào lúc phong trào tố giác bọn đón gió trở cờ lên cao. Người viết tự tin rằng mình làm đúng và còn có rất nhiều đồng minh. Vô hiệu hóa hay chống lại NQ36 của VGCS là vấn đề sinh tử của người VN tỵ nạn CS. Đây là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng ta thua, về danh nghĩa, chúng ta sẽ bị VGCS coi là kiều bào của chúng sinh sống tại hải ngoại. Khó còn cơ hội để phục quốc. Còn như nếu thắng, chúng ta còn có cơ hội đấu lại ván cờ. Như trên chúng tôi đã nói, VGCS đang áp dụng phương pháp “Dĩ di công di” để chinh phục đồng bào tỵ nạn chúng ta. Để dành được thắng lợi trong trận chiến sinh tử này, trước hết và trên hết, chúng ta phải tiêu diệt hết những kẻ núp vào cái vỏ bọc tỵ nạn để đánh phá chúng ta. Đây là con đường duy nhất, không có sự lựa chọn nào khác. Đánh Việt gian, diệt VC, đuổi xâm lược là tiến trình hợp lý nhất để cứu đất nước.
(tiếp theo và hết)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Tác dụng gây phân hóa
Điều đáng lo ngại nhất cho công cuộc chống cộng là cái nón cối, biểu tượng của NQ36, đã trở thành một thứ vũ khí giết người rất nguy hiểm trong cộng đồng chúng ta. Một người nào đó không phải là CS bị đội cái nón cối lên đầu là chết bỏ mẹ rồi. Dư luận thiếu hiểu biết cứ thế mà đâm, chém, bắn, giết cách nào tùy ý. Sự thật không phủ nhận được là nạn chụp nón cối lên đầu nhau đã trở thành loạn. Tình trạng này càng ngày càng làm phân hóa cộng đồng, làm chán nản tất cả mọi người có thiện chí, và tất nhiên chỉ có VGCS được hưởng lợi. Có trường hợp kẻ bị đội nón cối là CS thiệt. Nhưng cũng chắc chắn có trường hợp sai. Sai không ít. Có người than đây là cuộc chiến phe mình đánh phe ta. Cũng có phần đúng. VGCS giống như kẻ đứng ngoài, thản nhiên. Chúng không trực tiếp nhúng tay vào mà chỉ khoanh tay đứng nhìn chúng ta đấu đá nhau như người La Mã xưa xem giác đấu tại hí trường Colosseum. Thật sự là như thế.
Tác dụng của NQ36 xem ra đã định hướng được đường lối chống cộng của không ít các thành phần trong cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại. Kể từ khi có NQ36, cộng đồng tỵ nạn đã hết còn thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất lập trường và đường lối. Hiệu lực của Nghị Quyết là nó biến đổi khuynh hướng chống cộng thành chống đối lẫn nhau trong cộng đồng. Về điểm này hiện thấy có 3 khuynh hướng khá rõ rệt: chống theo cảm tính, chống theo phe cánh, và chống vì cảm thấy bất lực.
1. Chống theo cảm tính
Khuynh hướng chống cộng theo cảm tính làm phát sinh ra tinh thần suy tôn lãnh tụ. Sau khi TT Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết chết, đất nước không còn lãnh đạo. Các lãnh tụ đảng phái, những người chống đối TT Diệm đã có cơ hội cầm cờ trong tay nhưng đều đã không biết phất. Sự thể chứng minh họ rất dở về chính trị nhưng lại muốn làm lớn. Kết quả là họ mất niềm tin của quần chúng. Khi đã hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo chính trị ở tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu.
Việc đi tìm minh chủ là điều tốt. Nhưng về mặt chính trị, nâng con người lên hàng thần tượng và biến thành taboo thì không nên. Một khi thần tượng chỉ là một khúc gỗ rỗng ruột thì bàn thờ hương hoa bánh trái sẽ trở thành nơi cho dán chuột đến tung hoành. Thực trạng đất nước cho thấy tôn giáo lãnh đạo chính trị đã làm đất nước khốn đốn thêm. Sự thật khách quan sờ sờ chẳng mấy ai tin mà chỉ nhắm mắt tin chết vào những gì họ cảm nhận là đúng. Dân chúng và cả bọn chính khách xôi thịt chạy theo cha, sư, không cần biết lập trường và đường lối ra sao, thí dụ như:
* HT Thích Quảng Độ - HT Thích Quảng Độ chống bọn lãnh đạo Hànội thì rõ ràng rồi, nhưng nói rằng ngài chống cộng sản thì cần phải xét lại. Bởi vì, nếu HT Quảng Độ chống CS thiệt thì ngài đã không yêu cầu VGCS triệu tập và chủ sự một hội nghị gồm cả người tỵ nạn lẫn bọn VGCS. Đây là một hình thức HHHG với VGCS. Sự thể có thể hiểu là HT Quảng Độ đã mặc nhiên thừa nhận cái cơ chế gọi là đảng và nhà nước VGCS. Như thế sao bảo là HT Quảng Độ chống cộng. Việc xưa kia cũng thế. Chế độ Cộng Hòa tại miền Nam dù thế nào cũng là bước khởi đầu tốt thực thi các quyền tự do dân chủ cho người dân VN. Nếu các Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu có phạm sai lầm thì cũng chỉ nên truất phế đi thôi, tại sao HT lại tiếp tay cho VGCS triệt hạ đi cả chế độ. HT Thích Quảng Độ đã dấn thân vào việc dẹp bỏ chế độ của miền Nam. Vậy thì thật là vô lý nếu cho rằng bây giờ ngài lại tranh đấu đòi phục sinh cho cái chế độ đó. Những việc như thế làm người ta không hiểu được mục tiêu “chống” của HT Thích Quảng Độ là gì? Ngài có thực sự chống cộng không?
* Lm Phan Văn Lợi - Lm Lợi hiện nay trở thành một chính trị gia ở trong nước nhưng chạy show ăn khách tại hải ngoại, và là thần tượng chống cộng của nhiều người. Chính vì cái hào quang sáng quá nên không ai thấy bên cạnh ông linh mục lại có hai vị đại pháp sư nổi tiếng kèm hai bên. Cả hai đều xuất thân là cháu ngoan bác Hồ. Đại pháp sư Đỗ Nam Hải được VT đặc phái tả phù cho cha Lợi. Hữu bật là đại pháp sư Trần Anh Kim, nguyên trung tá chính ủy do đảng Dân Chủ cuội của Hoàng Minh Chính đặt để. Lm Nguyễn Văn Lý dốc tâm huyết gầy dựng nên khối 8406. Nay Lm Phan Văn Lợi đặt khối vào tay hai nhà phù thủy làm thành một bộ ba lãnh đạo để vô hiệu hóa hoạt động của khối và chích thuốc trợ tử cho tổ chức đấu tranh này. Đỗ Nam Hải đẩy Nguyễn Chánh Kết qua Mỹ cho bọn VT đưa lên giàn hỏa. Trần Anh Kim ký bổ nhiệm GS Nguyễn Xuân Vinh làm đại diện Khối 8406 tại Mỹ cùng với một lô thành phần bát nháo khác. GS Vinh là người thế nào và bọn bát nháo chống cộng ra làm sao thì người ta đã biết. Thực tế cho thấy, Lm Phan Văn Lợi cho dù thần thông đến đâu cũng không địch lại pháp thuật của yêu quái.
* Thứ ba, Lm Nguyễn Hữu Lễ - Cha Lễ cũng vậy. Khi ngài ngả vào bàn tay của VT thì việc đầu tiên là ngài dùng quyền năng và uy tín của một linh mục để rửa tội cho tên cáo già Hồ Chí Minh, xóa sạch đi cái đại tội Việt gian bán nước của hắn. Tên tội đồ chỉ còn trơ lại là một con người trần tục bình thường với những đam mê của nó. Sau khi xem DVD của cha Lễ, người tỵ nạn đã tối mắt rồi, còn phải bù đầu cầy cuốc nữa nên không có thì giờ đọc những tên dân chủ cuội trong nước ca tụng Hồ. Ít khi được nghe một bản hợp xướng nhịp nhàng như thế. Cuối cùng làm nổi bật lên Hồ là người có công lớn đối với đất nước. Tội của “bác” chỉ là sự thể hiện tính tự nhiên nơi con người. Luận điệu rập khuôn như VT công bố trên báo chí: Hồ Chí Minh là người có công với đất nước và đảng CS là một thành phần của dân tộc.
2. Chống theo phe cánh
Tinh thần bè phái hình như đã trở thành đặc tính của người Việt tỵ nạn hiện nay. Kết bè để chống cộng thì hết thuốc chữa. Chẳng hạn như chuyện vợ chồng ông Dương Văn Liêm, Lưu Lệ Ngọc quan hệ với VGCS đã là một sự thật hiển nhiên, được chính đương sự xác nhận trên đài VNHN. Thế mà các ông Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Đăng Tuấn vẫn cứ gân cổ lên bênh cho bằng được. Ông Nguyễn Đăng Tuấn lại là đương kim chủ tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đấy nhá. Không bè phái là gì? Sự kết bè kéo cánh của đám dân chủ cuội và bọn chống cộng bịp diễn ra khá lộ liễu.
Hiện tượng hết sức tiếu lâm mà ai cũng thấy rõ là hễ bất cứ ai đụng đến Nguyễn Chí Thiện là bà Bút Vàng nhẩy đông đổng lên bênh và chửi người ta là CS. Nhưng Nguyễn Chí Thiện là ai thì bây giờ mặt nạ của hắn đã rớt rồi. Thiện có đi diễn thuyết nhiều nơi. Đôi khi Thiện có tham gia biểu tình chống cộng. Thiện giấu đầu nhưng lại hở đuôi. Hắn lén lút theo Hoàng Minh Chính, Bùi Tín v.v. vào rừng giàn dựng ra màn kịch Tiểu Diên Hồng để HHHG với CS thì người ta đã nhìn thấy cái đuôi chồn của hắn. Chưa nói đến vụ Nguyễn Chí Thiện lý lịch bất minh, Nguyễn Chí Thiện hành động quanh co mờ ám chung quanh tập thơ Vô Đề.
Một điển hình khác về kiểu chống theo phe nhóm là trường hợp một số nhân vật vây quanh Bùi Tín tỷ như Phan Nhật Nam, Chu Tất Tiến, Trần Phong Vũ v.v.. Nhóm này bảo vệ Bùi Tín và bọn phản tỉnh cuội đỡ ồn ào hơn nhưng cũng quyết liệt lắm. Trần Phong Vũ nhất quyết rằng Bùi Tín đã hoàn toàn phản tỉnh. Thế nhưng Bùi Tín có phản tỉnh thật không thì xin xem đây. Mới ra khỏi nước Bùi Tín tuyên bố: “Tôi có vị thế của tôi, tôi có liên hệ với trong nước. Thức tỉnh trong nước là điều quan trọng. Cộng sản có những thành tích, cộng sản có những giá trị. Tôi là người cộng sản đến nay đã 45 năm. Chủ nghĩa Marx là phát minh khoa học, là một giá trị. Thuyết giá trị thặng dư của Marx là một giá trị.Duy vật biện chứng pháp là giá trị đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại.” (Báo Khỏe Đẹp, mục Sinh Hoạt Cộng Đồng, số 355 ngày 13-12-1991). Cho đến nay, lập trường Bùi Tín vẫn không thay đổi. Hắn vẫn từ chối chào lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ, vẫn giao du thân mật với đám dân chủ cuội như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Hà Sĩ Phu v.v., vẫn chẳng bao giờ tham dự các cuộc biểu tình chống cộng của người tỵ nạn. Bùi Tín phản tỉnh ở chỗ nào. Bọn chống cộng bịp ở hải ngoại không chịu hiểu rằng Bùi Tín chỉ chống những tên CS đang cầm quyền vì khác phe phái và vì tranh ăn. Bản thân Bùi Tín vẫn là một tên CS từ bản chất. Bùi Tín vẫn luôn luôn tôn thờ và bảo vệ tên tội đồ bán nước và đảng ngụy quyền tay sai của hắn.
Trong nhóm chống cộng bịp, người to tiếng là ông nhà văn Chu Tất Tiến. Ông viết cho tờ báo Người Việt. Ông tấn công CS ở tận bên VN, nhưng tên chủ báo của ông ở ngay trước mắt ông là CS thì ông lại không thấy. Ông viễn thị nặng hay là tinh thần bè phái? Chuyện ông làm dân vận bọn trẻ trong nước mới thật là lố bịch. Ông trưng dẫn lịch sử sai tùm lum. Nhà báo Nam Nhân sửa sai cho ông thì ông chụp nón cối lên đầu người ta. Ông viết Hai Bà Trưng xuất thân từ giai cấp nông dân đứng lên làm cách mạng thì bọn trẻ ở trong nước nín cười hết nổi, mà chắc nín thở luôn. Hai Bà Trưng là con gái quan Lạc Tướng ở Mê Linh, giai cấp quí tộc chứ đâu phải con nông dân. Ông Chu Tất Tiến muốn bắt chước sử gia Phạm Văn Sơn viết Hai Bà làm cách mạng. Sử gia Phạm Văn Sơn dùng chữ cách mạng theo nghĩa Hai Bà dành lại được quyền tự chủ từ chế độ Hán thuộc. Thế nhưng ông Chu Tất Tiến muốn phịa ra rằng Hai Bà là thành phần bần cố nông đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản như “Bác Hồ” của bọn trẻ trong nước. Dân vận bọn trẻ quàng khăn đỏ như thế thì hết sẩy rồi. Sự thực Hai Bà chỉ thiết lập một nhà nước phong kiến thô sơ ở nước ta sau khi đánh đuổi quân Hán, thu phục 60 thành trì, chứ đâu phải cách mạng vô sản, hữu sản gì.
3. Chống vì cảm thấy bất lực
Phải thừa nhận một sự thật là tinh thần chống cộng của cộng đồng tỵ nạn càng ngày càng yếu đi trong khi CS càng ngày càng thắng thế mặc dầu cuộc đấu tranh diễn ra ngay tại Mỹ. Như chúng tôi đã phân tích trong phần Hậu Quả Của Xâm Nhập trên đây, trong cộng đồng, một số không nhỏ đã đầu hàng VGCS vì nhiều lý do: tiền bạc, danh vọng, cảm tình gia đình, bị bắt bí v.v. Đa số chán nản buông xuôi và trùm chăn. Chỉ còn lại một thiểu số có tâm huyết vẫn kiên trì chiến đấu nhưng cảm thấy bất lực. Chiến đấu với tình trạng tâm lý như thế thật khó giữ được bình tĩnh. Rất nhiều bài viết phê phán gay gắt những khuynh hướng ngả theo CS xuất hiện trong lúc gần đây biểu lộ khuynh hướng đó. Tác giả thường bị bọn chống cộng bịp bắt bẻ là bạ cái gì cũng chửi, bạ ai cũng chống. Thử công minh một chút xem. Hoàng Minh Chính định lùa người Việt tỵ nạn vào cái tròng HHHG qua đề nghi cái bàn tròn Tiểu Diên Hồng. Chống có đúng không? Phê bình ông Nguyễn Bá Cẩn xì xụp vái lậy trước bàn thờ tên dân chủ cuội HMC. Sai ở chỗ nào? Vậy thì vấn đề không phải ai cũng chửi, cái gì cũng chống, mà là ở chỗ chửi có đúng và chống có đúng không. Dùng từ “chửi” và từ “đánh phá” để buộc tội những bài viết trung thực đã là điều bất công. Kết tội là CS lại càng bất nhân và bất công hơn nữa. Đành rằng có văn nô hoặc bồi bút len lỏi đánh phá trên các diễn đàn. Nhưng tuyệt đối không phải bài phê bình nào cũng là của CS cả. Để xác định một bài viết có do CS tung ra hay không, chỉ cần đọc nội dung của nó, phê bình đúng hay sai, có ý hướng xây dựng hay chỉ cố ý đả phá. Tiếng nói của người chính trực thường là những lời cảnh tỉnh. Mặc dù họ không phải là tiên tri, nhưng lời của họ giống như của các tiên tri Do Thái ngày xưa: thẳng thắn, mạnh bạo, và rất chói tai. Việc họ làm là cảnh giác dân chúng trước những nguy vong của đất nước.
Nếu đã nhìn nhận tình hình chống cộng và tình trạng chống nhau trong cộng đồng hiện nay đáng bi quan thì những tiếng nói phê phán trung thực nhất định là cần thiết. Thế nhưng điều hết sức bi quan là, những tên CS hoặc tay sai bị tố cáo có bằng chứng, có cơ sở thì lại không mấy người tin. Trái lại, những lời tố cáo hoặc chụp mũ nhau không dựa trên một bằng chứng nào hoặc một căn bản lý luận nào thì lại lắm người nghe theo. Lối chống cộng theo cảm tính hoặc nặng tinh thần phe phái đã trở thành khuynh hướng hành động theo định huớng đúng như CS mong muốn. Định hướng cuộc chống cộng của người tỵ nạn theo chiều hướng có lợi cho CS về lâu về dài là sách lược quan trọng của NQ36.
4. Để lật tẩy cộng sản
Để chận đứng tình trạng tai hại này, người quốc gia trước hết cần xác tín rằng có VGCS xâm nhập để cảnh giác. Vấn đề sau đó cần đặt ra là làm thế nào để có thể nhận diện chính xác được các tên VGCS và tay sai của chúng. Khó khăn của chúng ta là chẳng có tên CS nằm vùng nào mang giấy tờ tùy thân. Chúng ta cũng không có quyền hạch hỏi công chứng thư của chúng. Như vậy thì chỉ còn cách là phải căn cứ vào lập trưòng mà thẩm định. Nếu cần nữa thì phải nhờ đến túi khôn của người xưa để lại, tức là cách luận việc để biết người.
4.1 Căn cứ trên lập trường
Quốc Gia và CS là hai thực tế đối kháng lẫn nhau cả về lý thuyết lẫn hành động. Về mặt lý thuyết, xin nhấn mạnh chữ đối kháng mà không phải là đối lập. Đối kháng mang ý nghĩa phủ định và triệt tiêu lẫn nhau, trong khi đối lập chấp nhận nhau để cùng cạnh tranh sinh tồn. Lập trường của người tỵ nạn là lập trường dân tộc (quốc gia). Cộng sản là một khái niệm quốc tế, nó phủ nhận dân tộc tính nơi mỗi con người. Do đó, quốc gia và cộng sản không thể nào đứng chung và không thể nào cùng tồn tại, trái lại, luôn loại trừ nhau. Đó là khái niệm cơ bản về lằn ranh quốc gia và cộng sản.
Trong tình trạng vàng thau lẫn lộn hiện nay, căn cứ vào lập trường chính trị, tạm có thể xác định một người nào đó là ai: CS hay quốc gia, hoặc thành phần thứ ba. Thành phần nửa nạc nửa mỡ thứ ba thường tự nhận là những người đứng giữa, bao gồm những kẻ chủ trương đa nguyên đa đảng, những kẻ đấu tranh đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, nhũng kẻ thừa nhận Hồ Chí Minh có công đối với Dân Tộc v.v. Những thành phần này không hẳn là CS nhưng chắc chắn không phải quốc gia căn cứ vào khái niệm lập trường quốc, cộng vừa nói. Trên thực tế họ đã chấp nhận đầu hàng CS rồi. Họ chỉ đấu tranh đòi chia quyền và chia tiền với CS. Chủ trương của người quốc gia là phải xóa bỏ hẳn chế độ CS, nhổ tận gốc những ảnh hưởng gian ác của chúng để xây dựng một đất nước VN mới, tự do và dân chủ thực sự, hùng mạnh về kinh tế, còn phải đạo đức trong lối sống. Trong chính thể tương lai, nếu vẫn còn sự hiện diện của đảng CS thì chỉ với sức mạnh kinh tế của chúng, CS vẫn thừa sức thao túng nền chính trị quốc gia. Hiện nay, tất cả guồng máy kinh tế của đất nước đều đã nằm gọn trong tay bọn đảng viên CS rồi. Nói thế không phải để buông xuôi, mà là để biết mình, biết người hầu tìm ra cách đối phó hữu hiệu hơn. Phải tự tin vì người quốc gia có một lợi thế rất lớn, hơn CS rất nhiều. Đó là lòng dân:
Đắc cương thổ nhi thất nhân tâm, tất bại.
Thất cương thổ nhi đắc nhân tâm, tất thắng.
(được đất đai nhưng mất lòng người, tất bại. Trái lại, mất đất đai nhưng được lòng người tất thắng). Hiện nay VGCS chiếm được nước nhưng chúng đã hoàn toàn mất lòng dân. Ngược lại, người quốc gia phải lưu vong tỵ nạn nhưng vẫn được người dân trong nưóc yêu mến, hướng về. Như vậy thì tại sao chúng ta lại phải đầu hàng CS?
Sự khác biệt hệ ý thức quốc/cộng đã đưa đến cuộc chiến tranh VN trong suốt 3 chục năm và hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay. Thực tế chiến tranh VN cho thấy trên lý thuyết tuy đối kháng lẫn nhau, nhưng suốt 2/3 thế kỷ nay, không phải người Quốc Gia, mà chỉ có CS luôn truy lùng, đàn áp, bắt bớ, bỏ tù, và xâm lấn người quốc gia không ngừng nghỉ. Ngưòi quốc gia chạy ra nước ngoài rồi vẫn còn bị CS theo đuổi để chinh phục. Như thế, người quốc gia chống lại CS là chuyện bắt buộc. Về thực hành, cách thực tế nhất để phân biệt quốc gia với CS là căn cứ vào việc có chấp nhận lá Cờ Vàng hay không. Người quốc gia công nhận lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ của chế độ VNCH. Từ lập trường này, chúng ta xác định công cuộc chiến đấu chống lại chế độ VGCS là để khôi phục lại chế độ Cộng Hoà đã bị CS tiêu diệt. Mục tiêu này tồn tại ít nữa là trong giai đoạn hiện nay, khi chế độ CS không còn nữa sẽ tính sau. Đây là vấn đề đặt lằn ranh rõ ràng giữa Quốc gia và những kẻ không phải là quốc gia, nhất là CS.
4.2 Từ cái khôn của người xưa
Như đã nói, không dễ dàng xác định chắc chắn được kẻ nào là CS nằm vùng, kẻ nào là tay sai của chúng nếu chỉ căn cứ vào lập trường không thôi. Không thiếu bọn chống cộng bịp cũng phất cờ vàng, cũng hô đả đảo CS. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bất lực. Ngoài việc căn cứ trên lập trường, còn có một cách khác giúp chúng ta là làm theo sự chỉ dậy khôn ngoan của người xưa, chẳng hạn:
- châm ngôn Pháp: Cho tôi biết anh thường lui tới với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. (Dis moi qui tu frequentes, et je te dirai qui tu es), hoặc
- tục ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hay như
- lời cố TT Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm.
Việc truy tìm CS căn cứ trên lập trường và dựa vào các tiêu chí trên có thể tin là chính xác. Lấy thí dụ trường hợp Nguyễn Chí Thiện. Nếu chỉ nghe Nguyễn Chí Thiện nói thì ai cũng cho ràng hắn là một người chống cộng thiệt. Hắn chửi CS hay, chào Cờ Vàng nghiêm chỉnh, đôi khi còn tham gia biểu tình nữa. Nhưng bởi vì Nguyễn Chí Thiện luôn cặp kè với bọn VT và nhất là còn theo Hoàng Minh Chính vô núi để bàn kế hoạch Tiểu Diên Hồng thì chắc chắn hắn là một tên chống cộng bịp, nếu không muốn nói là một điệp viên nằm vùng của VGCS.
NQ36 và vai trò của Việt Tân
Nói đến NQ36 mà bỏ quên vai trò của đảng Việt Tân thì thật là một thiếu sót không thể chấp nhận được. Nếu không có đảng VT, chắc chắn VGCS không thể luồn sâu vào trong các cộng đồng tỵ nạn như hiện nay. Nói cách khác, VT chính là công cụ VGCS sử dụng để thi hành NQ36.
Không ai không biết các sách lược đấu tranh của VT đã được quảng bá rộng rãi là:
1- Đối đầu bất bạo động để tháo gỡ độc tài,
2- Xây dựng xã hội dân sự để đặt nền tảng dân chủ, và
3- Vận động toàn dân để canh tân đất nước.
Thoạt nghe, cứ tưởng như là VT chống cộng có sách lược lắm, vì đó là sách lược mà. Nhưng cái đuôi HHHG đã lại lòi ra ngay: “Do đó, ngay từ bây giờ phải tập trung nỗ lực để gầy dựng tư thế và uy tín cho Việt Tân, để trong tương lai, khi áp lực đấu tranh buộc đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận mở ra bối cảnh sinh hoạt đa nguyên, Việt Tân đã trong tư thế sẵn sàng để đối đầu với đảng CSVN trong trận thế đấu tranh chính trị công khai (phỏng vấn BS Trần Xuân Ninh)". Thì ra sách lược của VT là dọn đường về nước để đấu tranh chính trị. Nói trắng ra là bắt tay hòa hợp với VGCS. Sách lược này, nếu do một đảng phái quốc gia lương thiện có một quá trình tranh đấu già dặn kinh nghiệm thì có thể tin tưởng được phần nào, mặc dầu vẫn biết nó đáng nghi ngờ. Nhưng nó lại được quảng bá từ một tổ chức thảo khấu bất lương để bịp bợm thì không ai tin được. Điều hết sức phi lý là tổ chức này, những con người này không những đã không bị pháp luật trừng trị, mà trái lại nó vẫn mặc sức tung hoành và có vẻ còn có thế giá đối với chính quyền Mỹ.
Câu hỏi là tại sao? Và đây là câu trả lời: vì VT là tay sai, là công cụ. Tổ chức này từ bước đầu mới thành lập, hồi còn có tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN, gọi tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nó đã bị khuynh loát và thao túng bởi phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, một con người tham tiền và bịp bợm. Từ đầu thập niên 1980 đến nay (năm 2009), về danh xưng tổ chức này đã thay đổi từ Mặt Trận thành Đảng. Về mặt sinh hoạt, nó đã biến thái qua ba giai đoạn từ một tổ chức kháng chiến bịp đến hình thức mafia chuyên gây tội ác, và hiện nay là công cụ cho các thế lực chính trị sử dụng để mưu giàn dựng ra cái gọi là hòa hợp hòa giải hầu thiết lập cho VN một thể chế dân chủ cuội sau này.
1. Giai đoạn kháng chiến bịp
Giai đoạn ngắn ngủi này là lúc ông HCM còn sống. Dán cái nhãn hiệu “bịp” vào tên tuổi của một tổ chức chống cộng giải phóng quê hương thứ thiệt là phạm đại tội. Nhưng ịn lên tên MT Hoàng cơ Minh chữ “bịp” thì đúng lắm. Báo chí gọi thế. Người dân tỵ nạn gọi thế. Không phải người viết gọi thế với ý xấu, bởi vì ông HCM dựng lên Mặt Trận để bịp thiệt. Khu chiến là khu chiến giả. Kháng chiến là kháng chiến bịp. Báo kháng chiến toàn phịa tin không có. Kháng chiến quân hơn một trăm người thì khoảng một trăm là thanh niên Miên, Lào được ông HCM thuê mướn để đóng phim. Thế nhưng ông HCM đã nhân con số lên thành 10.000 tay súng. Phịa để làm gì? Câu trả lời là lời ông Minh nói với đại tá Phạm Văn Liễu như sau: “Phải tuyên bố như vậy thì đồng bào mới cho tiền.” Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số tiền đồng bào ủng hộ MT được ước lượng không dưới 10 triệu dollars. Số tiền lớn này ông HCM trao cả cho người em ruột của ông là ông Hoàng Cơ Định. Ông Định có gởi sang Thái Lan cho ông Minh 160.000 dollars để dùng cho kháng chiến, nhưng ông Minh gởi trả lại ông Định bảo cứ giữ lại tại Mỹ.
Ông HCM còn đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng khác nữa do người Mỹ thuê mướn là xâm nhập các nước Việt, Miên, Lào để tìm lính Mỹ mất tích bị nghi là vẫn còn sống. Vấn đề này báo chí có nói qua, nhưng vì là việc của CIA nên chẳng bao giờ tìm ra dấu vết. Chứng cứ là câu nói của BS Lê Văn Trực được cụ Phạm Ngọc Lũy ghi lai: “…việc anh Minh (HCM) đi Thái Lan có bàn tay Mỹ chi phối, trước sau rồi cũng làm tay sai.” (Phạm Ngọc Lũy: Hồi Ký Một Đời Người, tập II, trang 10).
Những chuyện về MT và về người chủ sự của nó là phó đề đốc HCM kể thì nhiều lắm. Tài liệu chất cao bằng đầu. Tất cả đi đến kết luận ông HCM là một con người mưu mô, xảo quyệt, phản bội đồng chí, tàn ác với đồng đội, thiếu tư cách lãnh đạo nên không làm được việc lớn, tham quyền và nhất là tham tiền. Do đó không thể có chuyện gọi là “giải phóng đất nước”. Tất cả được gói gọn trong một chữ “Bịp”.
2. Giai đoạn trở thành Mafia
Sau khi ông HCM chết, MT biến thành tổ chức mafia người Việt tại hải ngoại. Tổ chức này về mặt nổi do Nguyễn Kim Huờn túc Nguyễn Kim, một người rất ít được biết đến trước đó, lãnh đạo, nhưng mọi chuyện đều bí mật nằm dưới sự chỉ đạo của Hoàng Cơ Định, người em cùng cha khác mẹ với HCM. Định là người trước năm 1975 đã bị sa thải khỏi trường Cao Đẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Saigon vì lý do tham nhũng. Ls Hoàng Duy Hùng đã trích dẫn báo cáo của cơ quan FBI nhận định về MT như sau: MT và CS nằm vùng đã xâm nhập vào mọi lãnh vực cộng đồng, vào các nhóm du đãng, trẻ em Mỹ lai, và vị thành niên để dụ dỗ và khống chế các em gia nhập các băng đảng tội ác như làm đĩ, buôn bán ma túy và vũ khí, chuyển ngân lậu v.v. Ngoài ra MT còn bị tố cáo tội giết người như các nhà báo Đạm Phong, Lê Triết. Điều cần nhấn mạnh là ông Hoàng Duy Hùng là một luật sư tốt nghiệp và hành nghề tại Mỹ nên những tài liệu ông trưng dẫn nói rằng của cơ qua FBI phải tuyệt đối tin là đúng. Chắc chắn ông Ls Hùng không dám ăn nói bạt mạng, đùa dỡn với FBI. Lại nữa trong phiên tòa gọi là MT kiện báo chí diễn ra tại quận hạt Santa Clara ngày 12-12-1994, ông trung sĩ cảnh sát Douglas Zwemke cũng đã xác nhận rằng cảnh sát có đủ bằng chứng MT lem nhem tiền bạc, oa trữ vũ khí để uy hiếp và hăm dọa, gian lận thuế má và sổ sách.
MT bị tố cáo tất cả gồm 39 tội danh mà hầu như đều là tội đại hình. Điều không hiểu nổi là cho đến nay luật pháp nước Mỹ vẫn không điều tra và truy tố bất cứ một ai. Pháp bất vị thân. Luật pháp quốc gia có trách nhiệm phải điều tra và truy tố các kẻ phạm pháp ra tòa để buộc chúng phải đền tội. Cảnh sát nói đã có bằng chứng MT vi phạm luật. MT đông như thế, chẳng lẽ mấy chục năm qua cảnh sát không tìm ra được lấy một tên tội phạm trong đó. Chuyện như giỡn chơi, thật sự không thể nào lý giải được trừ khi chúng ta đặt nó vào cái thế của bàn cờ chính trị của VN hiện nay.
3. Giai đoạn làm công cụ
Theo lý thì MT đã phải bị giải tán và những kẻ vi phạm luật pháp đã phải bị trừng trị. Thế nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Thái độ mắt nhắm mắt mở của cơ quan an ninh Mỹ đã mở ra con đường biến MT thành công cụ để sử dụng. Phương pháp dùng người kiểu này rất thường thấy trong lãnh vực tình báo. Nó cũng không khác mấy chuyện công an CS dùng bọn côn đồ tội phạm để dẹp biểu tình của giáo dân.
Sau khi được tha bổng và được sử dung, MT mới bắt đầu lột xác biến thành đảng chính trị với cái tên là Việt Tân, công khai ra mắt tại Đức ngày 19-9-2004. Thực ra đảng VT đã được thành lập từ tháng 9-1982 gần đồng thời vói MT. Đảng và MT tuy hai nhưng chỉ là một. Chủ tịch đảng Đỗ Hoàng Điềm của VT hiện nay là một người trước đây ít có ai biết tiếng. Lý Thái Hùng, tổng bí thư, đuợc nhận diện là Bùi Minh Đoàn, và bị tố cáo là CS. Hoàng Cơ Định vẫn là người nắm giữ tiền bạc của đảng. Nhưng dư luận lại tin Nguyễn Xuân Nghĩa cháu tên cựu TBT đảng CSVN Nguyễn Văn Linh mới thực sự là linh hồn của đảng VT.
Chính phủ Mỹ sử dụng một đảng chính trị chủ trương chung sống hòa bình với CS, lại được lãnh đạo bởi các cán bộ CS thì cầm chắc là VGCS sẽ rất hài lòng. Luật pháp Mỹ không cho phép bất cứ một tổ chức nào ở Mỹ chủ trương đấu tranh lật đổ một chính phủ ngoại quốc bằng vũ lực mà nước Mỹ có thiết lập bang giao. MT chủ trương lật đổ nhà nước VGCS bằng vũ lực, do đó bắt buộc phải đổi thành đảng VT với chủ trương bắt tay hòa hơp với VGCS. Đó là lý do bắt buộc MT phải biến thành đảng VT để được phép hoạt động trên đất Mỹ. Vấn đề quan trọng ở đây là tại sao lại nói VT thực hiện NQ36 của VGCS. Để có câu trả lời, chúng ta cần trở về thời gian khoảng hơn mười năm về trước. Một lần sau khi ông Dennis Harter, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN nói chuyện với cộng đồng người tỵ nạn tại Houston, Texas, hai nhà báo Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cường viết bài tường thuật trên báo Ngày Nay nhận định rằng: nếu chúng ta đừng nghe những gì CS và HK nói, mà hãy nhìn vào những gì CS và HK làm, thì qua phần đối đáp của ông Harter, người ta có thể kết luận mà ít sợ sai lầm là hiện nay HK và VN quả thật đang cùng dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của một lộ trình Diễn Biến Hòa Bình. Kể như đã rõ ràng. Mỹ và CS bắt tay tiền chế một chế độ hòa hợp đa đảng tại VN mà VT là nhóm người được chọn lựa để làm đối lập với CS. Từ đó cho tới nay VT đã rất tích cực thi hành nhiệm vụ làm công cụ của mình. Những việc VT làm báo chí đề cập đến hàng ngày, vậy xin được miễn nhắc lại. Nói một cách tổng quát thì là một đàng ở trong nước, VT cấu kết với những thành phần dân chủ cuội trương chiêu bài tranh đấu đòi Dân Chủ. Một đàng tại hải ngoại, VT dựa vào sự yểm trợ ngầm của Mỹ, thi hành NQ36 trong cộng đồng tỵ nạn để xâm nhập, lũng đoạn, và lèo lái cộng đồng đi đến quên quá khứ, xóa hận thù hầu chấp nhận sống chung với VGCS. Đã có những chỉ dấu cho thấy các nhân vật tranh đấu trong và ngoài nước liên kết thành những tập thể đối lập giả hiệu do VT điều hợp dưới sự chỉ đạo ngầm của cả Mỹ lẫn VGCS. Đó là diễn biến hòa bình mà các ký giả Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cuờng đã nói tới.
Nên biết rằng trở ngại lớn nhất của diễn biến hòa bình là sự chống đối của người Việt tỵ nạn. VGCS coi khối người tỵ nạn là trở ngại đã đành, nhưng ngay cả chính quyền Mỹ cũng vậy. Chính quyền Mỹ sợ dư luận. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của nền dân chủ Mỹ là dư luận của quần chúng. Cả hành pháp lẫn lập pháp đều sợ dư luận, vì dư luận nói cụ thể ra là lá phiếu của cử tri. Hành pháp Mỹ dám giết tổng thống của một quốc gia, dám đem quân bắt tổng thống của nước khác đem về nhốt tại Mỹ, dám tống cổ một nước bạn thâm tình ra khỏi tòa nhà Liên Hiệp Quốc, dám xóa tên một nước có chủ quyền trên bản đồ thế giới, nhưng họ lại không dám đi ngược lại ý muốn của dân chúng Mỹ. Chính giới Mỹ sẵn sàng tạo ra dư luận để hoàn thành một mục tiêu nào đó cho mình. Phong trào phản chiến trước 1975 nếu không được thúc đẩy bới bàn tay lông lá thì khó lên cao được như đã thấy. Cho nên để thực hiện diễn biến hòa bình với VGCS, Chính phủ Mỹ trước tiên phải dẹp đi sức đấu tranh của khối người tỵ nạn. Kẻ đứng ra làm công cụ là VT. Phương pháp thông thường như đã nói trên vẫn là “Dĩ di công di”, tức là lấy tỵ nạn diệt tỵ nạn.
4. Một vấn đề ngoài lề
Bài viết đã dài. Đến đây coi như đã có thể kết thúc, chỉ còn phần kết luận. Ngưòi viết muốn nhân cơ hội đặt vấn đề với các quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đang là thành viên của đảng VT nên mới có vấn đề ngoài lề như thế này. Ý thức rằng QLVNCH trước kia và bây giờ vẫn là lưc lượng chủ lực chống cộng hữu hiệu nhất. Sự mất mát lớn lao nhất cho hàng ngũ người quốc gia yêu nước là việc một số không nhỏ quí vị quân nhân chạy theo băng đảng VT. Sự phản phúc của băng đảng VT thì đã rõ ràng, không còn gì phải nói. Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra là với tư cách là thành viên của đảng VT, việc đấu tranh của quí vị sẽ đem lại lợi ích gì cho đất nước. Quí vị đã dâng hiến cho Tổ Quốc nửa cuộc đời thanh xuân, coi như đã trả xong nợ sông núi. Không lẽ nửa quãng đời còn lại quí vị lại quay đầu lại với Tổ Quốc. Quí vị gia nhập đảng VT chính là hành vi đối đầu với Tổ Quốc, phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy.
Trước hết, quí vị đối đầu với Tổ Quốc với ảo tưởng rằng theo VT được Mỹ ủng hộ là quí vị đấu tranh cho tự do dân chủ tại VN. Quí vị lầm rồi. Bao nhiêu chuyện VGCS đàn áp nhân dân ta ở trong nước, Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ ỏ Hànội có bao giờ có biện pháp gì cụ thể giúp đâu, hay là chỉ ẫm ờ cho qua chuyện. Nhìn về quá khứ các năm 63, 75, lúc đó dù không có chuyện, chính quyền Mỹ cũng tạo ra cho có, chuyện nhỏ họ thổi lên thành chuyện lớn. Để làm gì thì mọi người đã thấy và lịch sử đã ghi chép đầy đủ. Đấy là cách thức chính quyền Mỹ giúp đỡ người quốc gia chúng ta. Người Việt tỵ nạn, nhất là các quân nhân QLVNVH cần nhìn và hiểu thấu đáo cái THẾ chính trị này. TT George W. Bush tiếp Đỗ Hoàng Điềm tại tòa Bạch Ốc được coi là một hình thức thừa nhận (endorse) VT cho người Việt tỵ nạn nhìn thấy mà theo. Nhưng đối với người tỵ nạn, hành động của Bush chẳng qua chỉ là để tưởng thưởng VT cũng giống như một ông chủ vuốt ve con chó trung thành và biết giữ nhà. Đừng có cho chuyện đó là quan trọng. Mỹ trở lại VN, đó là vì nhu cầu của nước Mỹ. VN cần Mỹ giúp, đó là một lợi ích thiết thực. Nhưng vấn đề là quan hệ và sư hợp tác hai bên đặt trên căn bản nào. Kinh nghiệm và lịch sử dậy chúng ta rằng, nếu chúng ta mạnh, người Mỹ sẽ giúp chúng ta trong tư thế bạn bè. Còn nếu chúng ta yếu, họ sẽ giúp chúng ta trên tư thế của một ông chủ đối với đầy tớ. VT làm công cụ cho một chính quyền đã bức tử chế độ VNCH tức là họ đã đối đầu với Tổ Quốc. Tin rằng Mỹ thừa nhận đảng VT tức là Mỹ giúp người quốc gia tiêu diệt CS? Xin đừng mơ ngủ nữa. Mở mắt ra mà nhìn đi.
Thứ nữa là quí vị đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình khi quí vị chạy theo VT mà quí vị không thấy. Xin hỏi VT ca ngợi VGCS là ái quốc có phải là họ gián tiếp kết án QLVNCH phản quốc không? Câu trả lời nhất định phải là đúng. Như vậy người quân nhân QLVNCH chạy theo VT là họ đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy. VT chối bỏ tư cách tỵ nạn với việc biến ngày Quốc Hận 30-4 thành ngày Tự Do cho VN. VT phỉ báng chính nghĩa quốc gia, ca tụng VGCS qua sự kiện cho tên CS Hà Dương Dực lên đài phát thanh hạ nhục QLVNCH, đề cao quân cướp VGCS. VT công nhận Hồ Chí Minh có công đối với đất nước và đảng VGCS là một thành phần dân tộc v.v. Cứ cho rằng những việc động trời đó là những sai lầm không đáng kể do đảng viên cấp dưới không ý thức đúng lập trường và đường lối của đảng. Nhưng thử hỏi khi trung ương đảng VT công khai ca tụng VGCS là ái quốc thì sao đây? Đây không phải chuyện nhỏ nhặt mà là vấn đề quan điểm, quan điểm về lòng yêu nước. Chỉ cần đặt ra một câu hỏi với VT: “thế nào là yêu nước” thì đã đủ để lột mặt nạ của VT xuống rồi. Nêu trường hợp cụ thể xem VT có cãi được không. Cách đây không lâu khi Nguyễn Hộ, một tên CS cực kỳ hung ác và khát máu chết, trung ương đảng VT tức tốc gởi đi khắp thế giới lời phân ưu với gia đình Nguyễn Hộ, ca tụng hắn là một nhà ái quốc. Nguyễn Hộ là ai thì hẳn người quốc gia ở miền Nam, nhất là vùng Saigon, Cholon không ai không biết. Hắn là kẻ giết người không run tay. Hắn công khai tuyên bố chính sách đối xử với quân, cán, chính VNCH khi hắn vào Saigon năm 1975 như sau: Nhà chúng, ta ở, vợ chúng, ta lấy, con cái chúng, ta bắt làm nô lệ, còn chúng, ta cho đi cải tạo không có ngày về. Một tên CS ác ôn như vậy mà đảng VT ca ngợi là một nhà ái quốc. Nếu Nguyễn Hộ ái quốc thì các vị tướng, tá QLVNCH như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn v.v. là thế nào? Nhất định là phản quốc chứ gì, có đúng không? Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Hộ, hai người bắn giết nhau ngoài mặt trận vì vấn đề đất nước. Nếu Nguyễn Hộ được kể là yêu nước thì Nguyễn Khoa Nam nhất định phải là phản quốc. Đấy là logic của lý luận. Lại nữa, nếu TT Nguyễn Khoa Nam, ĐT Hồ Ngọc Cẩn v.v. là phản quốc thì cả tập thể QLVNCH cũng kể là phản quốc luôn. Đây cũng là logic của lý luận. Quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đầu quân theo VT nghĩ sao đây, xin quí vị hãy lựa chọn chỗ đứng: là người “yêu nước” như tên CS ác ôn Nguyễn Hộ, hay là kẻ phản quốc như Nguyễn Khoa Nam, như Hồ Ngọc Cẩn? Nếu quí vị chọn chỗ đứng bên cạnh Nguyễn Hộ thì đích thực quí vị đã phản bội lại QLVNCH, phản bội đồng đội, và phản bội chính quí vị rồi vậy.
Kết Luận
Bài viết này chấm dứt đúng vào lúc phong trào tố giác bọn đón gió trở cờ lên cao. Người viết tự tin rằng mình làm đúng và còn có rất nhiều đồng minh. Vô hiệu hóa hay chống lại NQ36 của VGCS là vấn đề sinh tử của người VN tỵ nạn CS. Đây là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng ta thua, về danh nghĩa, chúng ta sẽ bị VGCS coi là kiều bào của chúng sinh sống tại hải ngoại. Khó còn cơ hội để phục quốc. Còn như nếu thắng, chúng ta còn có cơ hội đấu lại ván cờ. Như trên chúng tôi đã nói, VGCS đang áp dụng phương pháp “Dĩ di công di” để chinh phục đồng bào tỵ nạn chúng ta. Để dành được thắng lợi trong trận chiến sinh tử này, trước hết và trên hết, chúng ta phải tiêu diệt hết những kẻ núp vào cái vỏ bọc tỵ nạn để đánh phá chúng ta. Đây là con đường duy nhất, không có sự lựa chọn nào khác. Đánh Việt gian, diệt VC, đuổi xâm lược là tiến trình hợp lý nhất để cứu đất nước.
Thursday, November 12, 2009
OTTAWA KỶ NIỆM 20 NĂM SỤP ĐỔ BỨC TƯỜNG BÁ LINH VÀ CÔNG BỐ VIỆC XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CỘNG SẢN.
* Trần Gia Phụng *
Cali Today News -
Chiều Thứ Hai 9-11-2009, tại Government Conference Center ở thủ đô Ottawa, Văn phòng thủ tướng Canada phối hợp với nhóm Tribute to Liberty, đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh và công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN tại thủ đô nước Canada.
Số người tham dự đông hơn so với dự tính ban đầu của Ban Tổ Chức, vì vậy ngoài khoảng 200 ghế ngồi, những người tham dự phải đứng chung quanh hội trường hoặc ngồi ngoài phòng tiếp tân. Đa số các bộ trưởng trong Hội đồng chính phủ và những dân biểu Quốc hội Liêng bang đã đến tham dự. Về phía dân sự, đông đảo nhất là cộng đồng người Canadian gốc các nước Đông Âu trước đây bị cộng sản thống trị. Riêng phái đoàn người Canadian gốc Việt Nam gồm 11 người trong đó có đại diện Liên Hội người Việt Ottawa (4 thành viên), đại diện Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội Toronto (4 thành viên) và đại diện Hội Cựu Quân Nhân Ontario (3 hội viên).
Buổi lễ do thủ tướng Canada là Stephen Harper chủ tọa, bắt đầu lúc 2G.30 khi ông bộ trưởng Public Safety trong chính phủ Liên bang là ông Peter Van Loan, người điều khiển chương trình, công bố lý do buổi lễ. Bộ trưởng Peter Van Loan gốc người Estonia. Ông bà của ông bộ trưởng đã di cư sang Canada tỵ nạn cộng sản từ sau thế chiến 2.
Người khách đầu tiên được ông Peter Van Loan giới thiệu lên diễn đàn là đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức, George Witschel. Vị đại sứ nói bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp và Đức, nhắc lại sơ lược ý nghĩa lịch sử của sự kiện nầy, nhất là việc thống nhất nước Đức trong hòa bình.
Diễn giả kế tiếp là Wladyslaw Lizon, chủ tịch Polish Canadian Congress (Nghị hội người Canadian gốc Ba Lan). Ông Lizon nhắc lại những kinh nghiệm của người Ba Lan, ông cảm ơn đất nước Canada đã mở rộng đón nhận di dân và ông đặc biệt cảm ơn chính phủ Harper đã đồng ý cho xây dựng Tượng đài Tưởng niện Nạn nhân Cộng sản tại thủ đô Ottawa.
Diễn giả chính của buổi lễ là thủ tướng Stephen Harper Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ ngày 9-11-1989, đã ảnh hưởng chẳng những Âu Châu mà toàn thế giới. Thủ tướng Harper đã long trọng công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN trước sự vỗ tay hoan hô của cử tọa. Tưởng cũng nên nhắc lại, trước đây, tại Hà Nội, Stephen thủ tướng Harper đã nói một câu hết sức nổi tiếng với nhà nước cộng sản Việt Nam, đại ý là chính phủ Canada không dùng nhân quyền để đổi lấy đồng dollar.
Chung quy, các diễn giả nói trên đều xoay quanh lịch sử, ý nghĩa việc bức tường Bá Linh sụp đổ mà báo chí đã viết đến. Lời thủ tướng Stephen Harper công bố dự án xây dựng tượng đài nạn nhân độc tài cộng sản được bà Alide Forstmani, gốc người Latvia, chủ tịch Hội đồng Quản Trị của Tribute Liberty trình bày chi tiết hơn khi bà lên diễn đàn, phát biểu ý kiến.
Bà nhắc lại việc hàng trăm triệu người đã chết vì ý thức hệ cộng sản, hàng triệu công dân Canada gốc là nạn nhân cộng sản độc tài hay thuộc những gia đình nạn nhân cộng sản độc tài, trong đó có một số người có mặt hôm nay trong hội trường nầy. Bà nói việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản không phải chỉ để tưởng nhớ những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độc độc tài cộng sản. Bà cảm ơn chính phủ Canada đã chấp thuận dự án xây cất tượng đài tại thủ đô Ottawa.
Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, kết thúc khoảng sau 4 giờ chiều cùng ngày sau khi toàn thể những người tham dự cùng đứng lên làm lễ chào quốc kỳ Canada. Đặc biệt sau buổi lễ, thủ tướng Stephen Harper đã mời tất cả những người trong hội trường ở lại. Thủ tướng ân cần vui vẻ chào hỏi và chụp hình chung với một số đại diện cộng đồng và quan khách tham dự.
Ở đây, tưởng cũng xin thêm Tribute to Liberty là một tổ chức thiện nguyện, nhằm phục vụ những người yêu chuộng tự do ở Canada và trên thế giới. Ban điều hành Tribute to Liberty gồm có một Hội đồng Quản trị và một Hội đồng Cố vấn. Hội đồng Quản trị hiện nay gồm bốn người Canadian gốc các nước Estonia, Ukraine, Latvia và Việt Nam, gia nhập với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện sắc tộc hay cộng đồng. Hội đồng cố vấn gồm đại diện của 17 cộng đồng các sắc dân Đông Âu, vùng Baltic, Nam Hàn, Trung Quốc và Cuba.
Ngoài ra, Hội đồng Quản trị Tribute to Liberty đang xúc tiến thành lập một Board of Patrons gồm những nhà đấu tranh dân chủ, những nhân vật uy tín được quốc tế biết đến trong những cộng đồng thuộc các quốc gia đã thoát ách cộng sản cai trị hay đang bị cộng sản cai trị.
Hiện nay, tổ chức Tribute to Liberty đang cố gắng thực hiện dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN. Dự án đã được cơ quan National Capital Commission chấp thuận cho đặt tượng đài ngay tại thủ đô Ottawa. Địa điểm chính xác sẽ được thảo luận và quyết định sau.
Ban điều hành Tribute to Liberty đang còn kiện toàn tổ chức, tìm kiếm vùng đất tại thủ đô Ottawa để xây dựng tượng đài, và nhất là đang kiếm cách gây quỹ để đài thọ phí tổn. Dự án xây dựng tượng đài dự tính sẽ cần 1,5 triệu Gia kim. Tổ chức Tribute to Liberty kêu gọi toàn dân Canada, đặc biệt những người thuộc gia đình tỵ nạn cộng sản, dù ít dù nhiều, hãy tiếp tay với ban Xây dựng Tượng đài để có thể hoàn tất công trình thật ý nghĩa nầy.
Để thấy rõ tầm ý nghĩa lớn lao của của công trình xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, chúng ta cần chú ý rằng tại Canada, ngoài những thổ dân bản địa Canada, đại đa số dân cư Canada đều là di dân đến từ bốn phương trời. Những đợt di dân đầu tiên đến từ Âu Châu vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những đợt di dân từ giữa thế kỷ 20, đến từ các nước Đông Âu và từ Á Châu, có cùng một mẫu số chung, đều là những nạn nhân độc tài cộng sản, trong đó, đợt cuối cùng là những thuyền nhân (boat people) Việt Nam.
Các chế độ độc tài cộng sản trên thế giới đều có những nét giống nhau, mà Quốc hội Âu Châu họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, một thành phố miền Tây bắc nước Pháp, đã ghi nhận như sau:
“Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” (điều 2) (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)
Theo số liệu trong sách Le livre noir du communisme : crimes, terreur et répression, do Stéphane Courtois chủ biên, Edition Robert Laffont, S.A. Paris 1997, thì số nạn nhân của các chế độ cộng sản các nước trên thế giới có thể ước lượng như sau:
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 65 triệu
Liên Xô: 20 triệu
Cambodia: 2 triệu
Bắc Triều Tiên: 1,5 triệu
Việt Nam: 1 triệu
Đông Âu: 1 triệu
Afghanistan: 1,5 triệu
Phi Châu: 1,7 tri ệu
Nam Mỹ: 150,000
Đây chỉ là số liệu những người tử vong vì bàn tay sắt máu của cộng sản . Chắc chắn số nạn nhân bị bạo hành dưới chế độ chuyên chính độc tài toàn trị cộng sản trên thế giới lên đến hàng tỷ người. Vì sự vi phạm nhân quyền nặng nề của các chế độ cộng sản, nên dân chúng các nước bị cộng sản cai trị đã kiếm tất cả các cách bỏ nước ra đi tìm tự do, đến nỗi có một nhạc sĩ Việt Nam, ông Trần Văn Trạch, đã nói rằng “cây cột đèn cũng muốn ra đi ”.
Hiện nay, dân số Canada khoảng trên 32,000,000 người, trong đó có khoảng 8,000,000 người có nguồn gốc từ các nước bị cộng sản cai trị, nghĩa là 25% hay một phần tư dân số Canada, là những người tỵ nạn hay con cháu những người tỵ nạn cộng sản.
Nhìn vào bảng thống kê của Le livre noir du communisme: crimes, terreur et répression do Stéphane Courtois chủ biên, hai điều dễ nhận ra là: 1) Trong số các nước trên, còn lại 4 nước đang bị cộng sản thống trị là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba (trong nhóm Nam Mỹ). 2) Tất cả các sắc dân các nước trong bảng thống kê đều có mặt tại Canada.
Với một tỷ lệ dân số lớn lao thuộc thành phần tỵ nạn cộng sản hay con cháu những ngưòi tỵ nạn cộng sản tại Canada, việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Độc tài Cộng sản là một việc làm rất ý nghĩa đúng như bà Alide Forstmani đã phát biểu tại Ottawa nhân Lễ kỷ niệm 20 sụp đổ bức tường Bá Linh ngày 09-11-2009 là không phải chỉ để tưởng niệm những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độ độc tài cộng sản.
Xin mời quý đồng hương tìm hiểu thêm về công việc xây dựng TƯỢNG ĐÀI NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN qua web site: www.tributetoliberty.ca, và e-mail liên lạc với tổ chức Tribute to Liberty theo địa chỉ sau đây: info@tributetoliberty.ca.
(Toronto, 10-11-2009)
* Trần Gia Phụng *
Cali Today News -
Chiều Thứ Hai 9-11-2009, tại Government Conference Center ở thủ đô Ottawa, Văn phòng thủ tướng Canada phối hợp với nhóm Tribute to Liberty, đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh và công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN tại thủ đô nước Canada.
Số người tham dự đông hơn so với dự tính ban đầu của Ban Tổ Chức, vì vậy ngoài khoảng 200 ghế ngồi, những người tham dự phải đứng chung quanh hội trường hoặc ngồi ngoài phòng tiếp tân. Đa số các bộ trưởng trong Hội đồng chính phủ và những dân biểu Quốc hội Liêng bang đã đến tham dự. Về phía dân sự, đông đảo nhất là cộng đồng người Canadian gốc các nước Đông Âu trước đây bị cộng sản thống trị. Riêng phái đoàn người Canadian gốc Việt Nam gồm 11 người trong đó có đại diện Liên Hội người Việt Ottawa (4 thành viên), đại diện Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội Toronto (4 thành viên) và đại diện Hội Cựu Quân Nhân Ontario (3 hội viên).
Buổi lễ do thủ tướng Canada là Stephen Harper chủ tọa, bắt đầu lúc 2G.30 khi ông bộ trưởng Public Safety trong chính phủ Liên bang là ông Peter Van Loan, người điều khiển chương trình, công bố lý do buổi lễ. Bộ trưởng Peter Van Loan gốc người Estonia. Ông bà của ông bộ trưởng đã di cư sang Canada tỵ nạn cộng sản từ sau thế chiến 2.
Người khách đầu tiên được ông Peter Van Loan giới thiệu lên diễn đàn là đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức, George Witschel. Vị đại sứ nói bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp và Đức, nhắc lại sơ lược ý nghĩa lịch sử của sự kiện nầy, nhất là việc thống nhất nước Đức trong hòa bình.
Diễn giả kế tiếp là Wladyslaw Lizon, chủ tịch Polish Canadian Congress (Nghị hội người Canadian gốc Ba Lan). Ông Lizon nhắc lại những kinh nghiệm của người Ba Lan, ông cảm ơn đất nước Canada đã mở rộng đón nhận di dân và ông đặc biệt cảm ơn chính phủ Harper đã đồng ý cho xây dựng Tượng đài Tưởng niện Nạn nhân Cộng sản tại thủ đô Ottawa.
Diễn giả chính của buổi lễ là thủ tướng Stephen Harper Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ ngày 9-11-1989, đã ảnh hưởng chẳng những Âu Châu mà toàn thế giới. Thủ tướng Harper đã long trọng công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN trước sự vỗ tay hoan hô của cử tọa. Tưởng cũng nên nhắc lại, trước đây, tại Hà Nội, Stephen thủ tướng Harper đã nói một câu hết sức nổi tiếng với nhà nước cộng sản Việt Nam, đại ý là chính phủ Canada không dùng nhân quyền để đổi lấy đồng dollar.
Chung quy, các diễn giả nói trên đều xoay quanh lịch sử, ý nghĩa việc bức tường Bá Linh sụp đổ mà báo chí đã viết đến. Lời thủ tướng Stephen Harper công bố dự án xây dựng tượng đài nạn nhân độc tài cộng sản được bà Alide Forstmani, gốc người Latvia, chủ tịch Hội đồng Quản Trị của Tribute Liberty trình bày chi tiết hơn khi bà lên diễn đàn, phát biểu ý kiến.
Bà nhắc lại việc hàng trăm triệu người đã chết vì ý thức hệ cộng sản, hàng triệu công dân Canada gốc là nạn nhân cộng sản độc tài hay thuộc những gia đình nạn nhân cộng sản độc tài, trong đó có một số người có mặt hôm nay trong hội trường nầy. Bà nói việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản không phải chỉ để tưởng nhớ những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độc độc tài cộng sản. Bà cảm ơn chính phủ Canada đã chấp thuận dự án xây cất tượng đài tại thủ đô Ottawa.
Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, kết thúc khoảng sau 4 giờ chiều cùng ngày sau khi toàn thể những người tham dự cùng đứng lên làm lễ chào quốc kỳ Canada. Đặc biệt sau buổi lễ, thủ tướng Stephen Harper đã mời tất cả những người trong hội trường ở lại. Thủ tướng ân cần vui vẻ chào hỏi và chụp hình chung với một số đại diện cộng đồng và quan khách tham dự.
Ở đây, tưởng cũng xin thêm Tribute to Liberty là một tổ chức thiện nguyện, nhằm phục vụ những người yêu chuộng tự do ở Canada và trên thế giới. Ban điều hành Tribute to Liberty gồm có một Hội đồng Quản trị và một Hội đồng Cố vấn. Hội đồng Quản trị hiện nay gồm bốn người Canadian gốc các nước Estonia, Ukraine, Latvia và Việt Nam, gia nhập với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện sắc tộc hay cộng đồng. Hội đồng cố vấn gồm đại diện của 17 cộng đồng các sắc dân Đông Âu, vùng Baltic, Nam Hàn, Trung Quốc và Cuba.
Ngoài ra, Hội đồng Quản trị Tribute to Liberty đang xúc tiến thành lập một Board of Patrons gồm những nhà đấu tranh dân chủ, những nhân vật uy tín được quốc tế biết đến trong những cộng đồng thuộc các quốc gia đã thoát ách cộng sản cai trị hay đang bị cộng sản cai trị.
Hiện nay, tổ chức Tribute to Liberty đang cố gắng thực hiện dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN. Dự án đã được cơ quan National Capital Commission chấp thuận cho đặt tượng đài ngay tại thủ đô Ottawa. Địa điểm chính xác sẽ được thảo luận và quyết định sau.
Ban điều hành Tribute to Liberty đang còn kiện toàn tổ chức, tìm kiếm vùng đất tại thủ đô Ottawa để xây dựng tượng đài, và nhất là đang kiếm cách gây quỹ để đài thọ phí tổn. Dự án xây dựng tượng đài dự tính sẽ cần 1,5 triệu Gia kim. Tổ chức Tribute to Liberty kêu gọi toàn dân Canada, đặc biệt những người thuộc gia đình tỵ nạn cộng sản, dù ít dù nhiều, hãy tiếp tay với ban Xây dựng Tượng đài để có thể hoàn tất công trình thật ý nghĩa nầy.
Để thấy rõ tầm ý nghĩa lớn lao của của công trình xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, chúng ta cần chú ý rằng tại Canada, ngoài những thổ dân bản địa Canada, đại đa số dân cư Canada đều là di dân đến từ bốn phương trời. Những đợt di dân đầu tiên đến từ Âu Châu vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những đợt di dân từ giữa thế kỷ 20, đến từ các nước Đông Âu và từ Á Châu, có cùng một mẫu số chung, đều là những nạn nhân độc tài cộng sản, trong đó, đợt cuối cùng là những thuyền nhân (boat people) Việt Nam.
Các chế độ độc tài cộng sản trên thế giới đều có những nét giống nhau, mà Quốc hội Âu Châu họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, một thành phố miền Tây bắc nước Pháp, đã ghi nhận như sau:
“Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” (điều 2) (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)
Theo số liệu trong sách Le livre noir du communisme : crimes, terreur et répression, do Stéphane Courtois chủ biên, Edition Robert Laffont, S.A. Paris 1997, thì số nạn nhân của các chế độ cộng sản các nước trên thế giới có thể ước lượng như sau:
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 65 triệu
Liên Xô: 20 triệu
Cambodia: 2 triệu
Bắc Triều Tiên: 1,5 triệu
Việt Nam: 1 triệu
Đông Âu: 1 triệu
Afghanistan: 1,5 triệu
Phi Châu: 1,7 tri ệu
Nam Mỹ: 150,000
Đây chỉ là số liệu những người tử vong vì bàn tay sắt máu của cộng sản . Chắc chắn số nạn nhân bị bạo hành dưới chế độ chuyên chính độc tài toàn trị cộng sản trên thế giới lên đến hàng tỷ người. Vì sự vi phạm nhân quyền nặng nề của các chế độ cộng sản, nên dân chúng các nước bị cộng sản cai trị đã kiếm tất cả các cách bỏ nước ra đi tìm tự do, đến nỗi có một nhạc sĩ Việt Nam, ông Trần Văn Trạch, đã nói rằng “cây cột đèn cũng muốn ra đi ”.
Hiện nay, dân số Canada khoảng trên 32,000,000 người, trong đó có khoảng 8,000,000 người có nguồn gốc từ các nước bị cộng sản cai trị, nghĩa là 25% hay một phần tư dân số Canada, là những người tỵ nạn hay con cháu những người tỵ nạn cộng sản.
Nhìn vào bảng thống kê của Le livre noir du communisme: crimes, terreur et répression do Stéphane Courtois chủ biên, hai điều dễ nhận ra là: 1) Trong số các nước trên, còn lại 4 nước đang bị cộng sản thống trị là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba (trong nhóm Nam Mỹ). 2) Tất cả các sắc dân các nước trong bảng thống kê đều có mặt tại Canada.
Với một tỷ lệ dân số lớn lao thuộc thành phần tỵ nạn cộng sản hay con cháu những ngưòi tỵ nạn cộng sản tại Canada, việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Độc tài Cộng sản là một việc làm rất ý nghĩa đúng như bà Alide Forstmani đã phát biểu tại Ottawa nhân Lễ kỷ niệm 20 sụp đổ bức tường Bá Linh ngày 09-11-2009 là không phải chỉ để tưởng niệm những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độ độc tài cộng sản.
Xin mời quý đồng hương tìm hiểu thêm về công việc xây dựng TƯỢNG ĐÀI NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN qua web site: www.tributetoliberty.ca, và e-mail liên lạc với tổ chức Tribute to Liberty theo địa chỉ sau đây: info@tributetoliberty.ca.
(Toronto, 10-11-2009)
Subscribe to:
Posts (Atom)
Blog Archive
-
▼
2009
(183)
-
▼
December
(6)
- Cánh tay nối dài - Đặng Quang Chính - Người Việt...
- Quyên Góp Cho Việt Nam và Luật Hoa KỳTs. Nguyễn Đì...
- HẢI NGOẠI VỚI VIỆC LÀM TỪ THIỆN - Hữu-Tâm - Độ bảy...
- Những Con Chim Nhồi Bông của CĐ hải ngoại Trương T...
- Mùa từ thiện … kéo dài Viết tại Quận Cam, ngày 5 t...
- Tôi nằm gác tay lên trán... Tiểu Tử Hồi nãy, nằ...
-
▼
December
(6)