Sunday, March 30, 2008

VÀI LỜI THÔ THIỂN NHÂN BÀI VIẾT VỀ TRỊNH CÔNG SƠN
Trần Thân Yên

Giá mà CS đừng định mang Trịnh Công Sơn ra tán dương thì TCS và những gì liên hệ đến ông đều được coi như một trong các đề mục tiêu biểu cho một thời đã qua. Ông và những người trong hàng ngũ của ông đã làm xong nhiệm vụ giúp CS hoàn thành sứ mạng chiếm trọn quyền cai trị nước VN cho nên ngay chính những kẻ từng sử dụng họ cũng đã, từ lâu, gạt họ qua một bên. Dĩ nhiên những người như chúng ta - trong tư cách nạn nhân - cũng không còn lý do gì để nói tới họ nữa. Sự kiện TCS được nói tới qua việc nhạc của ông vẫn được hát và ca tụng, tên tuổi ông vẫn được vài nhà báo vốn nổi tiếng chống cộng (bằng những lời lẽ đao to búa lớn) thỉnh thoảng mang ra biện hộ … chỉ nói lên được một điều: đó là cái tâm rất mực dễ dãi của những người mệnh danh là “quốc gia”, mà đúng ra phải nên gọi là những người không CS bất kể họ có “chống” hay “không chống CS.

Không phải bỗng nhiên những người không CS được coi là dễ dãi. Trong cuộc tranh đấu, vừa đối đầu với ngoại nhân vừa chống CS (sau nầy gọi là “thù trong giặc ngoài”) lịch sử ghi lại rất nhiều trường hợp xử sự, nếu không cho là ngây thơ thơ thì cũng phải nói là dễ dãi, của lãnh tụ các đảng phái không CS.

Hợp tác với CS, bị CS lừa dối (Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh), thậm chí bị bán đứng (Phan Bội Châu), bị các đoàn quân CS chận đánh (trường hợp các đạo quân của Việt Quốc và Đại Việt trên đường rút sang Trung Hoa), bị chính các thủ lãnh CS ra lịnh thủ tiêu (Khái Hưng, Phạm Quỳnh, Huỳnh Phú Sổ, Ngô Đình Khôi, Trương Tử Anh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm) … vậy mà các đảng phái không CS vẫn cứ tiếp xúc và cứ ước mong được hợp tác với CS (Trần Trọng Kim khi lập chánh phủ sau cuộc đảo chánh của Nhật và Dương Văn Minh vào lúc sắp tan hàng là hai trường hợp điển hình). Phe “ta” dường như cứ kỳ vọng vào huyết thống và dân tộc để mong cầu hợp tác, gọi là “để đoàn kết xây dựng đất nước”, cho nên đã có vẻ như hoàn toàn không biết (dù biết rất rõ) rằng CSVN là một nhánh của CS Đệ Tam, được thành lập và yểm trợ để thực thi các chánh sách của CS Quốc Tế chớ không phải của đất nước và dân tộc VN.

Thành thử trong quá trình hoạt động, các đảng phái không CS vẫn cứ lơ là trong công tác chuẩn bị đối đầu thực sự với CS. Điều nầy giải thích tại sao cứ mỗi lần CS mở chiến dịch khủng bố những người không CS thì phe “ta” đều chỉ biết lánh mặt hoặc bỏ trốn với hi vọng mong manh là sẽ được dung tha.

Lịch sử thời chống thực dân Pháp không hề ghi lại bất cứ trường hợp nào mà trong đó các đảng phái không CS cũng thành lập các đội võ trang để kéo nhau đi thanh toán các phần tử CS. Dĩ nhiên là nồi da xáo thịt. Dĩ nhiên là nội chiến. Nhưng thử hỏi còn cách nào hay hơn để bảo vệ mạng sống chính mình hầu nhờ đó mà còn tiếp tục sống để tranh đấu cho một đất nước không CS?

Liệu có phương thức nào hữu hiệu hơn để ngăn chận một kẻ sát nhân đã nhứt quyết phải giết mình cho bằng được? Các lãnh tụ không CS đã cố gắng thuyết phục để hòa giải. Họ đã thất bại. Các lãnh tụ không CS đã mời gọi CS làm việc chung. Họ cũng đã thất bại. Các lãnh tụ không CS đã yêu cầu được chia sẻ quyền hành với CS. Họ vẫn thất bại.
Đảng CS muôn đời chỉ nhắm một mục tiêu duy nhứt. Đó là độc quyền và độc đảng cai trị. Gán cho CS bất cứ ý đồ nào khác hơn thế thì đều là ngây thơ. Nhắm mục tiêu tối hậu đó, CS không những chỉ giết những người không theo họ mà thậm chí còn giết luôn cả những đồng đảng mà tỏ ý bất phục (Nguyễn Bình, Lý Văn Sáu) hoặc ít nhứt cũng cho đi “an trí” nếu không thể giết (Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Định, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng). Còn trường hợp nào chứng tỏ đầu óc vô luân, bất nhơn và vô đạo của CS hơn trường hợp Trường Chinh làm ngơ cho đảng mang cha mẹ y ra đấu tố rồi sát hại?. Mà một khi đã giết được cha mẹ (để được Mao chịu cho lên làm Tổng Bí Thư Đảng trong trường hợp Trường Chinh) thì có lý do gì để những người không CS tin là CS sẽ tha cho mình?

“Bà Mẹ Chiến Sĩ” Nguyễn Thị Năm mang cúng cả gia tài để nuôi CS (được cả Hồ Chí Minh ban khen) mà cũng vẫn bị mang ra đấu tố và sát hại; hơn 200 sinh viên ở Hà Nội tỏ ý bất phục, không muốn đi lính “sinh Bắc tử Nam”, đã bị tướng Phùng Thế Tài dụ bắt và xử bắn toàn bộ để làm gương; thì thử hỏi những kẻ theo CS làm dáng, hay làm tay sai, hay để được nhứt thời nổi tiếng … tỉ như đám mệnh danh là “thành phần thứ ba” ở miền Nam có nghĩa lý gì đối với CS? Đám nầy chỉ bị CS cho “phục viên” sau khi cờ đỏ được kéo lên ở Saigon thì đã là một may mắn.

Ai còn muốn tin vào lòng nhân của người CS thì nên tìm đọc, và đi xem cuốn phim Katyn, ghi lại sự kiện Stalin đã ra lịnh hạ sát toàn bộ từ 21000 tới 25000 tù binh quân cán chính Ba Lan hồi năm 1940 tại cánh rừng Katyn. Những người nầy, gồm cả mấy tướng lãnh Ba Lan bị quân Liên Xô bắt sau khi chiếm Ba Lan năm 1939. Và nếu muốn biết thêm nữa về cái ác của CS thì nên đọc trọn cuốn “Mao, The Unknown Story” của vợ chồng bà Jung Chang (Trương Nhung) và ông Jon Halliday. Stalin là thầy và là chỉ huy tối cao trong khi Mao Trạch Đông thì chẳng những là bậc thầy mà còn là cấp chỉ huy trực tiếp của CSVN, đặc trách chỉ đạo CSVN trong cuộc chiến từ năm 1945. Đọc để thấy rằng trong guồng máy CS, không tàn ác thì không thể được tín cẩn. Và nếu không được tín cẩn thì chẳng những sẽ không thể lên cầm quyền mà có khi còn bị chính đồng đảng thanh toán nữa cũng chưa chừng. Và đọc để đừng ngạc nhiên khi thấy tại sao CSVN đã dễ dàng đập đầu và chôn sống cả chục ngàn dân cố đô Huế hay xả súng giết chết cả chục ngàn dân Quảng Trị trên đoạn quốc lộ 1 (mà về sau mệnh danh là “Đại lộ kinh hoàng”) khi họ bỏ trốn quân CS.

Tất cả đều là sự thật phi tuyên truyền. Có điều là vì chúng ta thuộc loại “tự do dân chủ” nên cả đời cứ lớ ngớ chẳng tin (gọi là “bán tín bán nghi”) và rồi cứ cả đời bị bịp. Tỉ như đã từng có cả khối người (mệnh danh là “promo Tây”) lập luận theo lời ông Mérillon rằng “mình có làm gì đâu mà phải bỏ chạy” cho đến nỗi nhiều người đã chẳng kịp chạy theo ông Đại Sứ đã bị CS cho hát xiệc ngay từ đầu nữa. Thậm chí nhiều người đã mất cả nhà cửa vợ con và thiếu điều mất cả sanh mạng, mà rồi giờ nầy, ngồi ở một chỗ an toàn nào đó, vẫn cứ lớ ngớ không tin cho đến khi bị gạt cả chục triệu dollars rồi bị đưa ra tòa, hoặc cho đến khi bị ném từ 10 tầng lầu cao xuống đất. Vợ của người bị ném thì được nghe giải thích là chồng bà té. Người bị trấn lột toàn bộ sự sản thì được giải thích là vì thiếu thuế (may mà còn chạy thoát).

Cái tâm cảm của người không CS nó kì kì, theo kiểu rất là “tự do dân chủ”. Khi yên ổn làm ăn nhờ có người xả thân chống Cộng để bảo vệ mình thì lờ đờ viết báo phản kháng chế độ (Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan) hoặc cực lực biểu tình đòi bãi chức chánh phủ Thiệu vì tội tham nhũng (Trần Hữu Thanh). Nhưng, cũng vốn “tự do dân chủ”, những người đó đều đã được dung dưỡng, coi như để làm màu cho một chế độ cần có đối lập hầu chứng minh cho người Mỹ thấy “sản phẩm VNCH” do tiền Mỹ yểm trợ không thể nào thuộc loại độc tài chuyên chế mà phải là một thứ tương tự như Mỹ. Điều chẳng may là chính cái áp lực Mỹ (bằng đồng dollar) đã là một trong những nguyên nhân – nếu không muốn nói là “nguồn cơn” – đưa chúng ta đến chỗ bị xóa sổ. Đây là điều rất đáng nói.

Trong trận chiến Yom Kippur (sau nầy còn được gọi là “Cuộc chiến 6 ngày” hồi năm 1967) bộ tư lịnh quân lực Israel đã tuyệt đối cấm tất cả báo chí (nhứt là báo Mỹ) ra tận chiến trường để thu thập tn tức. Tất cả đều chỉ được đến hậu tuyến và chỉ được loan tin theo bản tin chiến sự do quân lực của tướng Moshe Dayan cung cấp. Tuyệt nhiên không có một phóng viên Mỹ nào chửi bới chánh phủ Israel đã hạn chế quyền săn tin của họ. Ngược lại, trong cuộc chiến VN, phóng viên Mỹ toàn quyền đi bất cứ đâu, ngay cả lởn vởn đi trước cả lực lượng hành quân. Hậu quả là đã có trường hợp tư lịnh VN phải hủy bỏ cuộc hành quân chỉ vì tin tức xuất phát đã được loan báo trước khi lực lượng tiền phương lên đường. Tai hại hơn nữa, những nhận xét phiến diện của báo chí Mỹ, tỉ như bảo rằng binh sĩ VNCH “thỏ đế”, hoặc những bài viết hay hình ảnh tố cáo sự tàn ác của binh lính VNCH (hình vài binh sĩ Biệt Động Quân đeo một xâu lỗ tai của địch quân hoặc hình Tướng Loan xử bắn tại mặt trận một đặc công CS) mà không cần nói rõ rằng trong cả một chiến đoàn chỉ có một hai người lính đeo cái xâu lỗ tai đó, hay xác nhận rằng kẻ mà ông Loan xử tử tại mặt trận cũng chính là kẻ đã chỉ huy đám lính CS vừa xâm nhập một trại cảnh sát, giết chết một số thân nhân cảnh sát trong trại kể cả trọn gia đình của một Trung Tá thuộc cấp của ông Loan. Mọi người đều đã biết những bài viết và những hình ảnh loại nầy tai hại như thế nào cho chính nghĩa đấu tranh của người Việt miền Nam.

Cái khác biệt giữa Israel với VNCH nằm ở chỗ Israel đủ mạnh (nhờ đám tài phiệt Jewish vốn vẫn nắm hầu bao kinh tế các nước như Mỹ, Anh, Pháp, Hà Lan) trong khi mình thì suốt đời ăn nhờ dollar Mỹ. Cho nên họ làm mạnh được mà ta không làm được. Cho nên một xứ toàn sa mạc với khoảng 7 triệu dân mà đủ sức đối đầu từ thuở lập quốc với cả trăm triệu kẻ thù Ả Rạp lúc nào cũng muốn xóa tên họ trên bản đồ trong khi 20 triệu người không CS ở miền Nam VN lại trở thành một khối chiến bại và lưu vong, suốt ngày cứ phải ra rả biện minh cho cái lý do hiện diện của mình trên đất khách (rằng chúng tôi ly hương là vì yêu tự do dân chủ chớ chẳng phải vì miếng ăn). Một dạo (quí vị chắc còn nhớ) quân khủng bố cướp máy bay rồi sát hại hành khách khắp nơi. Bọn nầy sau đó vẫn tiếp tục … sống nhăn (có khi còn vòi được một mớ dollar) nhờ cướp máy bay Mỹ. Trái lại thì đã không hề có một tên khủng bố nào cướp máy bay của hãng El Al mà còn sống: có kẻ bị bắn chết ngay trên máy bay, có đám bị thanh toán toàn bộ sau khi máy bay đáp xuống, có bọn bị giết chung với nhiều hành khách ngay cả sau khi đã đã tới một nước khác. Biệt kích Isael không tha bất kỳ ai dám cướp máy bay Israel bất chấp phải hi sinh bao nhiêu hành khách. Đó chính là lý do mà thậm chí đám cuồng tín như những kẻ thù của Israel cũng hết dám lộng hành.

Nhưng Israel làm được mà VNCH mình thì không làm được. Mình yếu từ hồi nẵm, ngay cả từ thời Tây. Trong một lần nói chuyện riêng sau khi đã vào nhà già, Trung Tướng Mai Hữu Xuân tiết lộ ông đã từng bắt sống Lê Duẩn nhưng rồi đã bị người Pháp buộc phải thả ra. Chỉ cần so với sự kiện CS không hề tha bất cứ ai sau khi đã bị họ phong là “Việt gian” (như những người không CS đã dẫn chứng) thì cũng thấy rằng trong một cuộc đối đầu sanh tử, phe mình bao giờ cũng trọng chữ “sanh” hơn, dù là đối với những kẻ thù lúc nào cũng sẵn sàng thủ tiêu mình. Hãy thử tưởng tượng điều gì xảy ra nếu đám lính của ông Duẩn bắt sống được ông Xuân? Phe mình lúc nào cũng sợ mang tiếng ác. Ngược lại thì đối phương lại coi ác là phương tiện chuẩn mực và hữu hiệu nhứt. Cho nên mới chỉ hó hé viết văn làm thơ chống đối (coi lại thì cũng chẳng thấy họ chống đối gì ghê gớm cho lắm) là đã rũ tù (Nguyễn Chí Thiện) hoặc bị trù dập đến chết (Phan Khôi, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán). Chúng ta chẳng những không thể ác được mà lại còn rất nhởn nhơ. Thí dụ như các nhân vật mà mấy tháng nay được nói tới mãi (sau khi CS ăn mừng “chiến thắng Mậu Thân”) như anh em Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân … ở Huế, hay Huỳnh Liên, Ngô Bá Thành, Kim Cương, Trần Ngọc Châu, Đinh Văn Đệ, Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Lương, Trịnh Công Sơn, Trí Quang, Nhất Hạnh … ở Saigon, thì đều là những người có hồ sơ an ninh. Nghĩa là lai lịch và hoạt động CS của họ đều đã được cơ quan an ninh biết rõ. Hỏi “tại sao không nhốt” thì câu trả lời là “không có lịnh” hoặc “tụi Mỹ nó đâu có cho mình làm”. Bởi thế mới có cái hiện tượng gọi là “nhạc Trịnh” với toàn những bài ca ru ngủ, nếu không phản chiến, được phổ biến tùm lum (ngay cả trên các cơ quan truyền thông của chánh phủ).

Cái khác với CS, đồng thời cũng là nhược điểm của phe “ta” nằm ở chỗ chúng ta chống Cộng nho nhã quá. Làm như mình chỉ “cầu vừa đủ xài” theo kiểu dân Nam Kỳ soạn mâm ngũ quả mang cúng Tết (có thêm “thơm” nữa thì tốt, không có thì cũng chẳng chết thằng Tây say nào). Nói cách khác, phe mình tuồng như chỉ muốn van kẻ thù để yên cho mình là ổn rồi. Thỉnh thoảng kẻ thù (hoặc tay sai) có láo lếu thì đều được “xính xái”. Thí dụ như “xính xái” cho dân giàu miền Nam tiếp tục chuyển ngân (bằng những đồng dollar xin xỏ của Mỹ) sang Pháp cho đám con em ra đi từ Saigon nhưng đã chuyển sang cầm cờ biểu tình ủng hộ CS ở Paris. Bây giờ khi nhà cầm quyền Hà Nội muốn suy tôn công đức của Trịnh Công Sơn thì chúng ta khởi sự làm “cho ra lẽ” những hành tung gọi là “ăn cơm quốc gia thờ ma CS” của ông nầy từ thời 40 năm trước. Xét cho cùng, CS tôn vinh TCS thì cũng y như đã từng tôn vinh Phạm Xuân Ẩn hay Đinh Văn Đệ trước đây. Tất cả đều chỉ là những cán bộ CS đã có công giúp đảng chiếm được cả nước vậy thôi. Đầu đảng ủy lạo lâu la (có thể nói là truy thưởng trong trường hợp TCS) thì có đâu là chuyện lạ? Còn nếu bảo rằng TCS là một anh ba xạo, kê khai thành tích láo lếu để tự xiển dương công đức của đương sự với đảng mà đương sự đã nguyện cúc cung thì đó là chuyện riêng của đương sự, ăn thua chi tới mình (bởi phe mình đã từng biết rõ hành tung của đương sự từ khuya rồi mà). Riêng trong trường hợp TCS, cái bậy của “phe mình” là chẳng những đã để yên cho y tự tung tự tác mà còn rất nhẹ dạ giúp cho y hoàn thành điệp vụ một cách hết sức dễ dàng, ngay cả bằng làn sóng phát thanh và truyền hình của chánh quyền. Lỗi đó hoàn toàn không phải của TCS. Sau năm 1975, khi mà mọi hành tung của TCS được phanh phui và xác nhận thì nhạc của ông vẫn tiếp tục được tán dương trong cộng đồng người tị nạn CS. Ngay bây giờ quí vị vẫn có thể đọc được những bài báo ca ngợi TCS và nhạc của đương sự trên những tờ báo tự nhận là có lập trường dứt khoát chống cộng (có đôi nét khôi hài nữa khi thấy có tác giả mấy bài báo “ca” TCS cũng chính là tác giả những bài báo mắng mỏ thậm tệ những bài báo lẫn những hình ảnh đăng tải trên một tờ báo khác bị tác giả cho là “ăn bã CS để ca ngợi CS và phỉ báng cộng đồng người Việt tị nạn”)

Trong hơn 30 năm qua – kể từ những trang báo nguệch ngoạc do người tị nạn ấn hành lúc mới đến miền đất mới – chúng ta đã đổ tội cho Mỹ “đâm sau lưng chiến sĩ”, đã đổ tội cho chánh phủ của ông Diệm là độc tài gia đình trị và chánh phủ của ông Thiệu là hủ hóa và tham nhũng đến mức đã để vợ con mang thuốc tây bán cho CS (và rồi nổi lên chống cả hai chánh phủ đó). Chỉ chưa thấy chúng ta qui trách cho mình. Thử nêu một câu hỏi hoàn toàn có tính giả thuyết như vầy: giả tỉ đến ngày nay mà tiếng súng vẫn còn ầm vang trong nước mình và TCS vẫn còn an nhiên soạn nhạc thì liệu chúng ta có sẽ tiếp tục ca hát và quảng bá “nhạc Trịnh” như chúng ta đã từng ca hát và quảng bá cho tác phẩm và tên tuổi ông ta hồi mấy chục năm trước hay không dù đã biết thừa nhạc của ông bất lợi cho cuộc chiến chống Cộng của mình?

Theo thiển ý, câu trả lời của nhiều người vẫn là “có” bởi vì chúng ta vốn là những con người phóng khoáng, tự do dân chủ và do vậy mà rất ghét kìm kẹp. Đó là nét chính phân biệt giữa ta và địch (có người còn thậm chí biện giải rằng vì không muốn giống Cộng nên chúng ta mới chống Cộng). Lại nữa, ai mà nỡ ngược đãi một thiên tài bao giờ??!! Sau cùng, xin chấm dứt bằng một tiết lộ nho nhỏ (để chứng tỏ cái tâm quảng đại của phe mình), liên quan tới một trong hai thủ phạm đã ra tay sát hại GS Nguyễn Văn Bông. Người nầy, năm ngoái sang Mỹ du hí, đã được khá nhiều người trong hàng ngũ chống Cộng tiếp đón. Ngay ở thủ đô Washington chớ không phải ở Montréal như TCS. Ông Bông lúc bị giết là lãnh tụ Đảng Cấp Tiến và là Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh của VNCH – nghĩa là một nhân tài thuộc nhóm lãnh tụ của khối dân VN không CS.

Thành ra cho dù không có đạo, có lẽ chúng ta nên bắt đầu tụng câu “mea culpa” riêng trong trường hợp TCS trong khi vẫn tiếp tục “bảo quản” đức tính quảng đại đối với kẻ thù, nho nhã trong cách xử sự với đám tay sai của kẻ thù và dễ dãi đối với những kẻ đã từng có lúc chẳng gớm tay sát hại mình. Bởi đó chính là những đặc trưng của tập thể những người yêu tự do như người Việt miền nam chúng ta. Nghĩ lại thì chúng ta còn hay hơn chính người Mỹ ở đây: hồi thế chiến 2, chánh phủ Mỹ đã bắt cả khối kiều dân Nhật, “quay” họ lại trong những vòng rào kẽm gai để cô lập họ trong sa mạc vì sợ họ làm nội tuyến cho Nhật. Nghĩa là Mỹ hãy còn kém mình một nước về mặt dễ dãi với kẻ thù.

No comments:

Blog Archive