Đằng Sau Vụ Cảnh Sát Sanjose Hành Hung Du Sinh Hồ Phương
Trọng Tín (Kyoto)
Kính thưa qúy vị độc giả,
Nhẽ ra tôi không muốn làm mất thì giờ quý báu của qúy vị về chuyên tên du sinh Hồ Phương nào đó bởi đã có quá nhiều bàn luận về vấn đề này, tuy nhiên những phản ứng xung quanh sự kiện này không khỏi làm chúng ta suy nghĩ. Bài viết này không nhằm mục đích khai thác chuyện phân tích xem bên nào đúng, bên nào sai, hoặc bàn về khía cạnh tôn trọng nhân quyền hay không trong quá trình thi hành và bảo vệ pháp luật tại Hoa Kỳ, mà nhắm vào những phản ứng kỳ lạ của những người được gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” và tụi VGCS.
Như quý vị đã biết, du sinh Hồ Phương bị cảnh sát San Jose bắt vì tội đe dọa tính mạng đến bạn của hắn, nhưng hắn lại tỏ thái độ bất hợp tác với cảnh sát bằng kiểu lăn ra ăn vạ, la lối um sùm (xin mời xem lại kỹ đoạn video trên youtube), tất nhiên là với cách hành xử như vậy thì tất nhiên là phải nhận vài cái bạt tai, hay dùi cui (baton), hay ăn roi điện (taser) vv… đó cũng là lẽ thường trong hành xử của cảnh sát khi những đối tượng bị tình nghi là tội phạm không chịu tuân theo yêu cầu chấp hành hành pháp luật, nói cách khác là chống lại người thi hành công vụ. Tuy nhiên, sự việc có thể coi là “nhỏ như con thỏ” (ngôn ngữ của người trong nước) này lại được làm rùm beng như thể một chuyện “động trời”. Không những chỉ báo chí hải ngoại đưa tin, báo chí trong nước đưa tin, rồi còn thái độ phản ứng dữ dội của cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose”, và phát ngôn chính thức của Bộ Ngoại Giao của ngụy quyền VGCS. Hồ Phương chỉ là 1 du sinh nhỏ nhoi, từ trong nước qua San Jose du học, vậy mà dành được nhiều ưu ái quan tâm của ngụy quyền VGCS đến vậy sao? tại sao cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” lại lớn tiếng bênh vực cho Hồ Phương đến vậy? Tất nhiên mọi chuyện đều phải có nguyên nhân của nó, người Việt hay nói “không có lửa, làm sao có khói” là vậy.
Trước hết xin có vài lời nhận xét về bản thân du sinh Hồ Phương. Tôi không biết Hồ Phương là con cái nhà ai? qua Hoa Kỳ du học ở dạng gì (tư phí? học bổng của ngụy quyền VGCS?) tuy nhiên việc Hồ Phương có mặt được ở Hoa Kỳ cho thấy Hồ Phương phải là con cái của những loại có “máu mặt” nói theo ngôn ngữ trong nước là thành phần 5C nghĩa là “con cháu các chó (cụ) cả”. Tất nhiên Hồ Phương không thể là sinh viên nhận học bổng trực tiếp từ chính phủ Hoa Kỳ hay các quỹ học bổng của Hoa Kỳ được vì chính Hồ Phương tự thú là không rành tiếng anh.
Hồ Phương cũng có những phản ứng rất “cậu tú” của những gia đình được coi là có quyền chức hay có tiền dưới chế độ cai trị của ngụy quyền VGCS. Khi bạn của Hồ Phương chỉ đùa bằng cách bỏ bánh xà bông lên miếng thịt bò, Hồ Phương đã cầm dao chỉ vào mặt bạn và nói “ở nước nhà, là tao giết mày rồi” (nhiều tờ báo dịch tiếng Anh ra Việt rằng “ở nước tôi, thì tôi giết anh” - nghe thối không thể chịu được, có người Việt nào nói như vậy không?). Cái kiểu coi trời bằng vung, và sống trên tiền là hành xử của đám “cậu tú”, “cô chiêu” dưới chế độ VGCS. Chỉ có chúng mới có kiểu khinh thường mạng sống của kẻ khác đến như vậy, nói rõ hơn đây là sản phẩm tiêu biểu của kiểu đào tạo “trồng người” kiểu Hồ quốc tặc. Hành động của Hồ Phương cũng rất dễ hiểu nếu quý vị so sánh những chuyện ví dụ như con trai thằng VG Phan Văn Khải rút súng bắn con trai thằng VG Phạm Thế Duyệt vì tranh gái, hoặc đám con gái 16 tuổi lái chiếc BMW 400 ngàn USD gây tại nạn tan tành chiếc xe rồi ung dung bỏ đi, hay khi đi đua xe máy bị bắt và tịch thu xe thì các “người hùng” (mà “anh hùng” Lý Tống rất kỳ vọng trong công cuộc đấu tranh dân chủ cho đất nước) nhơn nhơn không chút hối hận và thêm nữa còn được các bà mẹ cỗ vũ bằng cách an ủi “thôi về đi, mẹ sẽ mua cho con xe khác đẹp hơn” chưa kể là tất nhiên trước đó đã được các ông bố phone đi khắp nơi nhờ quen biết để xin bảo lãnh cho người và xe được an toàn trở về.
Với thói quen sống được nuông chiều và cứ mỗi lần mắc lỗi là lại được thỏa mãn yêu cầu lớn hơn, nên phản ứng dọa giết bạn cùng phòng vì 1 trò đùa cũng là điều dễ hiểu. Hơn nữa tôi dám chắc rằng Hồ Phương dám làm thật nếu như người bạn kia dám làm thế khi ở Việt Nam, bởi vì tại sao phải nói “nếu ở nước nhà”? nghĩa là hiện nay đang ở Mỹ, luật pháp Mỹ rất nghiêm và “ông bô”, “bà bô” (ngôn nhữ của các “cậu ấm”, “cô chiêu” VGCS) của tao không ở đây nên tao không thể giết mày, chứ ở Việt Nam tao làm được, và làm được mà tao không sao hết. Thêm 1 điều nữa do thói quen “làm luật” với “ông bô”, “bà bô” bằng cách lăn kềnh ra, dẫy đành đạch, rồi la khóc ra chiều đau đớn lắm, nên cũng là dễ hiểu cho hành động của Hồ Phương khi bị cảnh sát đến bắt, và chính vì hành động kiểu này đã bị cảnh sát buộc phải khống chế bằng vũ lực. Tóm lại Hồ Phương thuộc loại con nhà có uy quyền hoặc có nhiều tiền do đi làm Việt Gian và được nuông chiều đến mức hư hỏng, mất dạy, và côn đồ. Tôi dám chắc đến 90% rằng hắn được cho sang Hoa Kỳ du học là 1 hình thức giáo dục khi “ông bô”, “bà bô” hắn bất lực trong việc dạy dỗ hắn. Những thành phần kiểu như Hồ Phương vẫn đang được rất nhiều kẻ kỳ vọng , kiểu như đám chống cộng xôi thịt ở Hải Ngoại lý luận rằng “được ra nước ngoài học tập, mở mang đầu óc, thấy được dân chủ trên đất nước Hoa Kỳ, thì sau này sẽ bớt mọi rợ đi”. Hoặc như GS cò mồi Hoàng Tụy vừa rồi với ý kiến thay đổi cơ bản nền giáo dục trong nước để làm sống lại nguồn nhân lực quốc gia bằng cách tìm ra những người lãnh đạo có thực tài và tâm huyết, Hồ Phương chắc cũng là một kiểu mẫu mà Hoàng Tụy đang chờ đợi vì hắn được đào tạo tại Hoa Kỳ.
Chuyện chỉ có vậy, một chuyện rất nhỏ, vài cái bạt tai, vài cú đánh vì không tuân lệnh cảnh sát thôi, nhưng đã có những người “Việt tại San Jose” đánh hơi thấy được rất nhanh và 1 luật sư nào đó tên Nguyễn Hoàng Duyên đã mua lại đoạn video để tung lên báo chí, để rồi sau đó báo chí tại Hải Ngoại tạo ra thành “làn sóng phẫn nộ” và Bộ Ngoại Giao của NQVGCS (ngụy quyền việt gian cộng sản) quan tâm chú ý đặc biệt với sự phát ngôn chính thức của vẹm mái Nguyễn Phương Nga. Tại sao hàng ngàn cô dâu tại Hàn Quốc, Đài Loan đang bị ngược đãi, có người phải nhảy lầu tự tử, hàng ngàn người đang lao động tại Malaysia bị cưỡng bức lao động quá sức, các ngư phủ bị Tàu Cộng bắt cóc đánh đập, phá thuyền bè, rồi những người đi làm thuê giúp việc tại Lebanon cần bảo vệ di chuyển khi có chiến tranh thì Bộ Ngoại Giao NQVGCS không chú ý? Câu trả lời là những chuyện dân đen đó không có lợi cho tập đoàn VGCS, nhưng chuyện Hồ Phương thì có lợi cho chúng.
Nên nhớ rằng dưới chế độ VGCS chuyện phát ngôn của Bộ Ngoại Giao không phải chỉ đơn giản là do Bộ Ngoại Giao quyết định, nghĩa là những lời từ miệng con VG mái Nguyễn Phương Nga không phải chỉ là do tối cao quyết định của VG Phạm Gia Khiêm, mà là do sự thống nhất của Bộ Chính Trị, hoặc chí ít là có sự thảo luận của Ban Bí Thư. Hồ Phương nếu có là con cái cấp bự thì cũng như trường hợp của VG Phạm Thế Duyệt, bố của hắn đành ngậm tăm chịu dựng chứ không dám lên tác động để Bộ Ngoại Giao có sự can thiệp. Dưới chế độ VGCS mọi quyết định đều có sự làm việc tập thể, như vậy cũng là để không có ai phải chịu trách nhiệm trước hậu quả của việc làm và đồng thời là cơ hội để các VG “đồng chí” (đấu tranh) với nhau. Trường hợp của Lê Khả Phiêu là 1 ví dụ, hoàn thành chuyện dâng đất cho Tàu Cộng ở biên giới phía Bắc hắn bị các “đồng chí” của hắn lôi ra làm thịt tại Đại Hội Trù Bị IX, nhưng do quyết định đó đã được thông quan tại Bộ Chính Trị nên hắn công khai nói “việc này tôi thực hiện quyết định của BCT chứ đâu mình tôi” làm cho phe Anh-Mười phải cứng lưỡi đành chuyển hướng sang chuyện “Thanh Hóa hóa” của hắn. Điều này thêm 1 lần chứng minh cho chúng ta thấy tính chất VG của tập đoàn VGCS, không chỉ vài thằng chóp bu trong BCT như con chim mồi Bùi Tín vẫn hót.
Đối với những tên VG có quyền chức càng cao bao nhiêu thì sự yên bình của cái ghế ngồi càng quan trọng với chúng bấy nhiêu. Đã có nhiều thằng VG gộc, vì muốn leo cao hơn trong hệ thống quyền lực của tập đoàn VGCS bèn ra vẻ liêm khiết trong sạch bằng cách đưa con cái của chúng ra vung sâu, vùng xa làm việc để tạo credit cho chúng… giữ ghế. Nhưng ngờ đâu với cái thói nuông chiều, sống trên tiền của các “cậu ấm”, “cô chiêu” chúng nhanh chóng hư hỏng hơn, tỷ dụ như sa vào hút sách, chích choác, thành ra sau khi bố được thăng chức thì con bị nghiện xì ke vô phương cứu chữa. Đưa đến trại cai nghiện thì bỉ mặt bố, mà giữ ở nhà thì ngày một nghiện nặng hơn. Chính vì sự đấu đá khốc liệt trong bộ máy quyền lực của tập đoàn VGCS như vậy mà không it những thằng đại VG chấp nhận hy sinh ngay cả vợ con của chúng. Nếu Hồ Phương có vì là 1 con cái của thằng đại VG nào đó thì chúng cũng không vì thế mà ra tay con trai của chúng. VGCS lên tiếng cho Hồ Phương vì lý do hoàn toàn khác.
Sở dĩ VGCS chộp ngay lấy sự kiện Hồ Phương là vì tháng 9 vừa rồi sau báo cáo của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chúng đã la ó phản đối rằng đó là một báo cáo sai sự thật rằng chưa khách quan vv… và vv… Mặc dù không bị đưa ngược trở lại danh sách CPC tuy nhiên, chúng cũng không khỏi ấm ức. Tất nhiên là như vậy, bởi lẽ chúng quen nghe những cụm từ ngoại giao như “đánh giá cao sự phát triển của Việt Nam”, “tiến tới hợp tác toàn diện”, “đối tác chiến lược”, “hợp tác lâu dài”, hay “tôn trọng chủ quyền của nhau” vv… Tất nhiên, những màn phản ứng của VGCS và Hoa Kỳ cũng chỉ là màn kịch để bịp dân đen VN mà thôi, như kiểu “bà đưa chân giò thì ông thò chai rượu”. Muốn chơi với Hoa Kỳ, nhưng trên danh nghĩa thực tế vẫn là 1 đám mọi rợ với cách xử sự bị coi là rừng rú, vì không biết đến nhân quyền, nên VGCS cần và rất cần đến những vụ như Hồ Phương để làm khó dễ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Trong suy nghĩ của chúng chỉ vài hành động là đã có thể chứng minh được bản chất, thực tế chúng không hiểu được rằng chuyện của cảnh sát không liên quan gì đến ngoại giao cả, pháp luật hay sự công bằng thuộc về sự phán xử tại Tòa Án và cho dù có hiểu hay không thì việc la lối lên như vậy theo chúng cũng là có một lợi thế nhất định nào đó. Biết bao nhiêu, sinh viên bị cảnh sát Nga đánh đập tới chết mà tụi nó cũng làm thinh đó thôi. Nếu nhìn những hành động của chúng mà quên đi bản chất VG của chúng thì không thể hiểu được việc làm của tập đoàn VGCS.
Hành động của bọn VGCS thì đã rõ, vậy còn cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose”? Thực chất nếu hiểu cụm tự “cộng đồng người Việt tai San Jose” có thể hiểu theo 3 cách. Cách thứ nhất là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cách đây hơn 30 năm đã bất chấp mạng sống vượt biển để đi tìm tự do nay đã chuyển hướng, trở cờ bằng việc “đấu tranh chính trị” với VGCS qua chiêu bài dân chủ hóa để canh tân đất nước. Cách hiểu thứ 2 là cộng đồng của những thành phần đã ra đi theo nhiều cách thức khác nhau với mục đích làm công tác chiêu dụ đầu tư, ngoại vận, tuyên truyền văn hóa để làm vững mạnh “Đảng”. Cách hiểu thứ 3 là cộng đồng người Việt tỵ nạn CS nhưng đã bị thâm nhập trở thành 1 thứ hổ lốn vàng thau lẫn lộn. Nếu theo 2 cách hiểu thứ nhất và thứ 2, thì qua việc Hồ Phương cho thấy cái gọi là “cộng đồng người Việt tại San Jose” đã hoàn thành xuất sắc công việc của chó săn trung thành bảo vệ tính mạng cho “cháu ngoan bac Hồ” và góp phần xây dựng “Đảng” để ngày thêm vững mạnh, chống chọi hữu hiệu với các “thế lực thù địch”. Hành động của cái gọi là “cộng đồng” ấy là chuyện không quá khó hiểu vì lẽ dĩ nhiên chúng đã tự đầu hàng, khuất phục VGCS, hoặc lý do tồn tại của nó là 1 trong những tổ chức của VGCS ở hải ngoại, nhằm phục vụ tập đoàn VGCS với chiến lược đối ngoại của VGCS ở hải ngoại.
Nếu là cách hiểu thứ 3 thì đây thực sự là một sự nguy hiểm, đặc biệt sau sự kiện của Hồ Phương, điều đó cho thấy toàn bộ cái gọi là cộng đồng người Việt ty. nạn cộng sản chân chính đã bị xâm nhập, cô lập hóa để điều khiển theo hướng trở thành các cộng đồng “Việt Kiều” ở hải ngoại, và tụi VGCS đang xử dụng những danh nghĩa như vậy để phục vụ cho lợi ích làm VG của chúng. Đây không phải là một dự báo hoặc chỉ là một phản ánh thực tế mà đã trở thành 1 sự thật cay đắng rằng, người Việt tỵ nạn CS đang dần quên đi mình là ai? mục đích của sự tồn tại bản thân? ý nghĩa của sự tồn tại đó, nói một cách dễ hiểu hơn là người Việt tỵ nạn CS đang thua VGCS ngay tại ngôi nhà của mình. Nếu là những người Việt tỵ nạn CS chân chính chúng ta không có lý do gì để bênh vực cho 1 thằng mất dạy, côn đồ như thằng Hồ Phương, trái lại chúng ta nhận diện rõ những kẻ đang ủng hộ nó là ai? đấu tranh với chúng. Không những thế cần phải ủng hộ cảnh sát San Jose để loại những kẻ “cháu ngoan bác Hồ” như thằng Hồ Phương ra khỏi cộng đồng, cô lập bọn chó săn VGCS tại hải ngoại. Nói ra lúc này đã là muộn, nhưng nếu không hành động thì sự bành trướng của chó săn VGCS sẽ lan rộng nhanh chóng và thôn tính toàn bộ cộng đồng người Việt tỵ nạn CS cũng giống như triệu chứng di căn của căn bệnh ung thư vậy.
Monday, November 23, 2009
Sunday, November 22, 2009
NGHỊ QUYẾT 36 THẮNG LỚN
(tiếp theo và hết)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Tác dụng gây phân hóa
Điều đáng lo ngại nhất cho công cuộc chống cộng là cái nón cối, biểu tượng của NQ36, đã trở thành một thứ vũ khí giết người rất nguy hiểm trong cộng đồng chúng ta. Một người nào đó không phải là CS bị đội cái nón cối lên đầu là chết bỏ mẹ rồi. Dư luận thiếu hiểu biết cứ thế mà đâm, chém, bắn, giết cách nào tùy ý. Sự thật không phủ nhận được là nạn chụp nón cối lên đầu nhau đã trở thành loạn. Tình trạng này càng ngày càng làm phân hóa cộng đồng, làm chán nản tất cả mọi người có thiện chí, và tất nhiên chỉ có VGCS được hưởng lợi. Có trường hợp kẻ bị đội nón cối là CS thiệt. Nhưng cũng chắc chắn có trường hợp sai. Sai không ít. Có người than đây là cuộc chiến phe mình đánh phe ta. Cũng có phần đúng. VGCS giống như kẻ đứng ngoài, thản nhiên. Chúng không trực tiếp nhúng tay vào mà chỉ khoanh tay đứng nhìn chúng ta đấu đá nhau như người La Mã xưa xem giác đấu tại hí trường Colosseum. Thật sự là như thế.
Tác dụng của NQ36 xem ra đã định hướng được đường lối chống cộng của không ít các thành phần trong cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại. Kể từ khi có NQ36, cộng đồng tỵ nạn đã hết còn thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất lập trường và đường lối. Hiệu lực của Nghị Quyết là nó biến đổi khuynh hướng chống cộng thành chống đối lẫn nhau trong cộng đồng. Về điểm này hiện thấy có 3 khuynh hướng khá rõ rệt: chống theo cảm tính, chống theo phe cánh, và chống vì cảm thấy bất lực.
1. Chống theo cảm tính
Khuynh hướng chống cộng theo cảm tính làm phát sinh ra tinh thần suy tôn lãnh tụ. Sau khi TT Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết chết, đất nước không còn lãnh đạo. Các lãnh tụ đảng phái, những người chống đối TT Diệm đã có cơ hội cầm cờ trong tay nhưng đều đã không biết phất. Sự thể chứng minh họ rất dở về chính trị nhưng lại muốn làm lớn. Kết quả là họ mất niềm tin của quần chúng. Khi đã hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo chính trị ở tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu.
Việc đi tìm minh chủ là điều tốt. Nhưng về mặt chính trị, nâng con người lên hàng thần tượng và biến thành taboo thì không nên. Một khi thần tượng chỉ là một khúc gỗ rỗng ruột thì bàn thờ hương hoa bánh trái sẽ trở thành nơi cho dán chuột đến tung hoành. Thực trạng đất nước cho thấy tôn giáo lãnh đạo chính trị đã làm đất nước khốn đốn thêm. Sự thật khách quan sờ sờ chẳng mấy ai tin mà chỉ nhắm mắt tin chết vào những gì họ cảm nhận là đúng. Dân chúng và cả bọn chính khách xôi thịt chạy theo cha, sư, không cần biết lập trường và đường lối ra sao, thí dụ như:
* HT Thích Quảng Độ - HT Thích Quảng Độ chống bọn lãnh đạo Hànội thì rõ ràng rồi, nhưng nói rằng ngài chống cộng sản thì cần phải xét lại. Bởi vì, nếu HT Quảng Độ chống CS thiệt thì ngài đã không yêu cầu VGCS triệu tập và chủ sự một hội nghị gồm cả người tỵ nạn lẫn bọn VGCS. Đây là một hình thức HHHG với VGCS. Sự thể có thể hiểu là HT Quảng Độ đã mặc nhiên thừa nhận cái cơ chế gọi là đảng và nhà nước VGCS. Như thế sao bảo là HT Quảng Độ chống cộng. Việc xưa kia cũng thế. Chế độ Cộng Hòa tại miền Nam dù thế nào cũng là bước khởi đầu tốt thực thi các quyền tự do dân chủ cho người dân VN. Nếu các Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu có phạm sai lầm thì cũng chỉ nên truất phế đi thôi, tại sao HT lại tiếp tay cho VGCS triệt hạ đi cả chế độ. HT Thích Quảng Độ đã dấn thân vào việc dẹp bỏ chế độ của miền Nam. Vậy thì thật là vô lý nếu cho rằng bây giờ ngài lại tranh đấu đòi phục sinh cho cái chế độ đó. Những việc như thế làm người ta không hiểu được mục tiêu “chống” của HT Thích Quảng Độ là gì? Ngài có thực sự chống cộng không?
* Lm Phan Văn Lợi - Lm Lợi hiện nay trở thành một chính trị gia ở trong nước nhưng chạy show ăn khách tại hải ngoại, và là thần tượng chống cộng của nhiều người. Chính vì cái hào quang sáng quá nên không ai thấy bên cạnh ông linh mục lại có hai vị đại pháp sư nổi tiếng kèm hai bên. Cả hai đều xuất thân là cháu ngoan bác Hồ. Đại pháp sư Đỗ Nam Hải được VT đặc phái tả phù cho cha Lợi. Hữu bật là đại pháp sư Trần Anh Kim, nguyên trung tá chính ủy do đảng Dân Chủ cuội của Hoàng Minh Chính đặt để. Lm Nguyễn Văn Lý dốc tâm huyết gầy dựng nên khối 8406. Nay Lm Phan Văn Lợi đặt khối vào tay hai nhà phù thủy làm thành một bộ ba lãnh đạo để vô hiệu hóa hoạt động của khối và chích thuốc trợ tử cho tổ chức đấu tranh này. Đỗ Nam Hải đẩy Nguyễn Chánh Kết qua Mỹ cho bọn VT đưa lên giàn hỏa. Trần Anh Kim ký bổ nhiệm GS Nguyễn Xuân Vinh làm đại diện Khối 8406 tại Mỹ cùng với một lô thành phần bát nháo khác. GS Vinh là người thế nào và bọn bát nháo chống cộng ra làm sao thì người ta đã biết. Thực tế cho thấy, Lm Phan Văn Lợi cho dù thần thông đến đâu cũng không địch lại pháp thuật của yêu quái.
* Thứ ba, Lm Nguyễn Hữu Lễ - Cha Lễ cũng vậy. Khi ngài ngả vào bàn tay của VT thì việc đầu tiên là ngài dùng quyền năng và uy tín của một linh mục để rửa tội cho tên cáo già Hồ Chí Minh, xóa sạch đi cái đại tội Việt gian bán nước của hắn. Tên tội đồ chỉ còn trơ lại là một con người trần tục bình thường với những đam mê của nó. Sau khi xem DVD của cha Lễ, người tỵ nạn đã tối mắt rồi, còn phải bù đầu cầy cuốc nữa nên không có thì giờ đọc những tên dân chủ cuội trong nước ca tụng Hồ. Ít khi được nghe một bản hợp xướng nhịp nhàng như thế. Cuối cùng làm nổi bật lên Hồ là người có công lớn đối với đất nước. Tội của “bác” chỉ là sự thể hiện tính tự nhiên nơi con người. Luận điệu rập khuôn như VT công bố trên báo chí: Hồ Chí Minh là người có công với đất nước và đảng CS là một thành phần của dân tộc.
2. Chống theo phe cánh
Tinh thần bè phái hình như đã trở thành đặc tính của người Việt tỵ nạn hiện nay. Kết bè để chống cộng thì hết thuốc chữa. Chẳng hạn như chuyện vợ chồng ông Dương Văn Liêm, Lưu Lệ Ngọc quan hệ với VGCS đã là một sự thật hiển nhiên, được chính đương sự xác nhận trên đài VNHN. Thế mà các ông Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Đăng Tuấn vẫn cứ gân cổ lên bênh cho bằng được. Ông Nguyễn Đăng Tuấn lại là đương kim chủ tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đấy nhá. Không bè phái là gì? Sự kết bè kéo cánh của đám dân chủ cuội và bọn chống cộng bịp diễn ra khá lộ liễu.
Hiện tượng hết sức tiếu lâm mà ai cũng thấy rõ là hễ bất cứ ai đụng đến Nguyễn Chí Thiện là bà Bút Vàng nhẩy đông đổng lên bênh và chửi người ta là CS. Nhưng Nguyễn Chí Thiện là ai thì bây giờ mặt nạ của hắn đã rớt rồi. Thiện có đi diễn thuyết nhiều nơi. Đôi khi Thiện có tham gia biểu tình chống cộng. Thiện giấu đầu nhưng lại hở đuôi. Hắn lén lút theo Hoàng Minh Chính, Bùi Tín v.v. vào rừng giàn dựng ra màn kịch Tiểu Diên Hồng để HHHG với CS thì người ta đã nhìn thấy cái đuôi chồn của hắn. Chưa nói đến vụ Nguyễn Chí Thiện lý lịch bất minh, Nguyễn Chí Thiện hành động quanh co mờ ám chung quanh tập thơ Vô Đề.
Một điển hình khác về kiểu chống theo phe nhóm là trường hợp một số nhân vật vây quanh Bùi Tín tỷ như Phan Nhật Nam, Chu Tất Tiến, Trần Phong Vũ v.v.. Nhóm này bảo vệ Bùi Tín và bọn phản tỉnh cuội đỡ ồn ào hơn nhưng cũng quyết liệt lắm. Trần Phong Vũ nhất quyết rằng Bùi Tín đã hoàn toàn phản tỉnh. Thế nhưng Bùi Tín có phản tỉnh thật không thì xin xem đây. Mới ra khỏi nước Bùi Tín tuyên bố: “Tôi có vị thế của tôi, tôi có liên hệ với trong nước. Thức tỉnh trong nước là điều quan trọng. Cộng sản có những thành tích, cộng sản có những giá trị. Tôi là người cộng sản đến nay đã 45 năm. Chủ nghĩa Marx là phát minh khoa học, là một giá trị. Thuyết giá trị thặng dư của Marx là một giá trị.Duy vật biện chứng pháp là giá trị đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại.” (Báo Khỏe Đẹp, mục Sinh Hoạt Cộng Đồng, số 355 ngày 13-12-1991). Cho đến nay, lập trường Bùi Tín vẫn không thay đổi. Hắn vẫn từ chối chào lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ, vẫn giao du thân mật với đám dân chủ cuội như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Hà Sĩ Phu v.v., vẫn chẳng bao giờ tham dự các cuộc biểu tình chống cộng của người tỵ nạn. Bùi Tín phản tỉnh ở chỗ nào. Bọn chống cộng bịp ở hải ngoại không chịu hiểu rằng Bùi Tín chỉ chống những tên CS đang cầm quyền vì khác phe phái và vì tranh ăn. Bản thân Bùi Tín vẫn là một tên CS từ bản chất. Bùi Tín vẫn luôn luôn tôn thờ và bảo vệ tên tội đồ bán nước và đảng ngụy quyền tay sai của hắn.
Trong nhóm chống cộng bịp, người to tiếng là ông nhà văn Chu Tất Tiến. Ông viết cho tờ báo Người Việt. Ông tấn công CS ở tận bên VN, nhưng tên chủ báo của ông ở ngay trước mắt ông là CS thì ông lại không thấy. Ông viễn thị nặng hay là tinh thần bè phái? Chuyện ông làm dân vận bọn trẻ trong nước mới thật là lố bịch. Ông trưng dẫn lịch sử sai tùm lum. Nhà báo Nam Nhân sửa sai cho ông thì ông chụp nón cối lên đầu người ta. Ông viết Hai Bà Trưng xuất thân từ giai cấp nông dân đứng lên làm cách mạng thì bọn trẻ ở trong nước nín cười hết nổi, mà chắc nín thở luôn. Hai Bà Trưng là con gái quan Lạc Tướng ở Mê Linh, giai cấp quí tộc chứ đâu phải con nông dân. Ông Chu Tất Tiến muốn bắt chước sử gia Phạm Văn Sơn viết Hai Bà làm cách mạng. Sử gia Phạm Văn Sơn dùng chữ cách mạng theo nghĩa Hai Bà dành lại được quyền tự chủ từ chế độ Hán thuộc. Thế nhưng ông Chu Tất Tiến muốn phịa ra rằng Hai Bà là thành phần bần cố nông đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản như “Bác Hồ” của bọn trẻ trong nước. Dân vận bọn trẻ quàng khăn đỏ như thế thì hết sẩy rồi. Sự thực Hai Bà chỉ thiết lập một nhà nước phong kiến thô sơ ở nước ta sau khi đánh đuổi quân Hán, thu phục 60 thành trì, chứ đâu phải cách mạng vô sản, hữu sản gì.
3. Chống vì cảm thấy bất lực
Phải thừa nhận một sự thật là tinh thần chống cộng của cộng đồng tỵ nạn càng ngày càng yếu đi trong khi CS càng ngày càng thắng thế mặc dầu cuộc đấu tranh diễn ra ngay tại Mỹ. Như chúng tôi đã phân tích trong phần Hậu Quả Của Xâm Nhập trên đây, trong cộng đồng, một số không nhỏ đã đầu hàng VGCS vì nhiều lý do: tiền bạc, danh vọng, cảm tình gia đình, bị bắt bí v.v. Đa số chán nản buông xuôi và trùm chăn. Chỉ còn lại một thiểu số có tâm huyết vẫn kiên trì chiến đấu nhưng cảm thấy bất lực. Chiến đấu với tình trạng tâm lý như thế thật khó giữ được bình tĩnh. Rất nhiều bài viết phê phán gay gắt những khuynh hướng ngả theo CS xuất hiện trong lúc gần đây biểu lộ khuynh hướng đó. Tác giả thường bị bọn chống cộng bịp bắt bẻ là bạ cái gì cũng chửi, bạ ai cũng chống. Thử công minh một chút xem. Hoàng Minh Chính định lùa người Việt tỵ nạn vào cái tròng HHHG qua đề nghi cái bàn tròn Tiểu Diên Hồng. Chống có đúng không? Phê bình ông Nguyễn Bá Cẩn xì xụp vái lậy trước bàn thờ tên dân chủ cuội HMC. Sai ở chỗ nào? Vậy thì vấn đề không phải ai cũng chửi, cái gì cũng chống, mà là ở chỗ chửi có đúng và chống có đúng không. Dùng từ “chửi” và từ “đánh phá” để buộc tội những bài viết trung thực đã là điều bất công. Kết tội là CS lại càng bất nhân và bất công hơn nữa. Đành rằng có văn nô hoặc bồi bút len lỏi đánh phá trên các diễn đàn. Nhưng tuyệt đối không phải bài phê bình nào cũng là của CS cả. Để xác định một bài viết có do CS tung ra hay không, chỉ cần đọc nội dung của nó, phê bình đúng hay sai, có ý hướng xây dựng hay chỉ cố ý đả phá. Tiếng nói của người chính trực thường là những lời cảnh tỉnh. Mặc dù họ không phải là tiên tri, nhưng lời của họ giống như của các tiên tri Do Thái ngày xưa: thẳng thắn, mạnh bạo, và rất chói tai. Việc họ làm là cảnh giác dân chúng trước những nguy vong của đất nước.
Nếu đã nhìn nhận tình hình chống cộng và tình trạng chống nhau trong cộng đồng hiện nay đáng bi quan thì những tiếng nói phê phán trung thực nhất định là cần thiết. Thế nhưng điều hết sức bi quan là, những tên CS hoặc tay sai bị tố cáo có bằng chứng, có cơ sở thì lại không mấy người tin. Trái lại, những lời tố cáo hoặc chụp mũ nhau không dựa trên một bằng chứng nào hoặc một căn bản lý luận nào thì lại lắm người nghe theo. Lối chống cộng theo cảm tính hoặc nặng tinh thần phe phái đã trở thành khuynh hướng hành động theo định huớng đúng như CS mong muốn. Định hướng cuộc chống cộng của người tỵ nạn theo chiều hướng có lợi cho CS về lâu về dài là sách lược quan trọng của NQ36.
4. Để lật tẩy cộng sản
Để chận đứng tình trạng tai hại này, người quốc gia trước hết cần xác tín rằng có VGCS xâm nhập để cảnh giác. Vấn đề sau đó cần đặt ra là làm thế nào để có thể nhận diện chính xác được các tên VGCS và tay sai của chúng. Khó khăn của chúng ta là chẳng có tên CS nằm vùng nào mang giấy tờ tùy thân. Chúng ta cũng không có quyền hạch hỏi công chứng thư của chúng. Như vậy thì chỉ còn cách là phải căn cứ vào lập trưòng mà thẩm định. Nếu cần nữa thì phải nhờ đến túi khôn của người xưa để lại, tức là cách luận việc để biết người.
4.1 Căn cứ trên lập trường
Quốc Gia và CS là hai thực tế đối kháng lẫn nhau cả về lý thuyết lẫn hành động. Về mặt lý thuyết, xin nhấn mạnh chữ đối kháng mà không phải là đối lập. Đối kháng mang ý nghĩa phủ định và triệt tiêu lẫn nhau, trong khi đối lập chấp nhận nhau để cùng cạnh tranh sinh tồn. Lập trường của người tỵ nạn là lập trường dân tộc (quốc gia). Cộng sản là một khái niệm quốc tế, nó phủ nhận dân tộc tính nơi mỗi con người. Do đó, quốc gia và cộng sản không thể nào đứng chung và không thể nào cùng tồn tại, trái lại, luôn loại trừ nhau. Đó là khái niệm cơ bản về lằn ranh quốc gia và cộng sản.
Trong tình trạng vàng thau lẫn lộn hiện nay, căn cứ vào lập trường chính trị, tạm có thể xác định một người nào đó là ai: CS hay quốc gia, hoặc thành phần thứ ba. Thành phần nửa nạc nửa mỡ thứ ba thường tự nhận là những người đứng giữa, bao gồm những kẻ chủ trương đa nguyên đa đảng, những kẻ đấu tranh đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, nhũng kẻ thừa nhận Hồ Chí Minh có công đối với Dân Tộc v.v. Những thành phần này không hẳn là CS nhưng chắc chắn không phải quốc gia căn cứ vào khái niệm lập trường quốc, cộng vừa nói. Trên thực tế họ đã chấp nhận đầu hàng CS rồi. Họ chỉ đấu tranh đòi chia quyền và chia tiền với CS. Chủ trương của người quốc gia là phải xóa bỏ hẳn chế độ CS, nhổ tận gốc những ảnh hưởng gian ác của chúng để xây dựng một đất nước VN mới, tự do và dân chủ thực sự, hùng mạnh về kinh tế, còn phải đạo đức trong lối sống. Trong chính thể tương lai, nếu vẫn còn sự hiện diện của đảng CS thì chỉ với sức mạnh kinh tế của chúng, CS vẫn thừa sức thao túng nền chính trị quốc gia. Hiện nay, tất cả guồng máy kinh tế của đất nước đều đã nằm gọn trong tay bọn đảng viên CS rồi. Nói thế không phải để buông xuôi, mà là để biết mình, biết người hầu tìm ra cách đối phó hữu hiệu hơn. Phải tự tin vì người quốc gia có một lợi thế rất lớn, hơn CS rất nhiều. Đó là lòng dân:
Đắc cương thổ nhi thất nhân tâm, tất bại.
Thất cương thổ nhi đắc nhân tâm, tất thắng.
(được đất đai nhưng mất lòng người, tất bại. Trái lại, mất đất đai nhưng được lòng người tất thắng). Hiện nay VGCS chiếm được nước nhưng chúng đã hoàn toàn mất lòng dân. Ngược lại, người quốc gia phải lưu vong tỵ nạn nhưng vẫn được người dân trong nưóc yêu mến, hướng về. Như vậy thì tại sao chúng ta lại phải đầu hàng CS?
Sự khác biệt hệ ý thức quốc/cộng đã đưa đến cuộc chiến tranh VN trong suốt 3 chục năm và hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay. Thực tế chiến tranh VN cho thấy trên lý thuyết tuy đối kháng lẫn nhau, nhưng suốt 2/3 thế kỷ nay, không phải người Quốc Gia, mà chỉ có CS luôn truy lùng, đàn áp, bắt bớ, bỏ tù, và xâm lấn người quốc gia không ngừng nghỉ. Ngưòi quốc gia chạy ra nước ngoài rồi vẫn còn bị CS theo đuổi để chinh phục. Như thế, người quốc gia chống lại CS là chuyện bắt buộc. Về thực hành, cách thực tế nhất để phân biệt quốc gia với CS là căn cứ vào việc có chấp nhận lá Cờ Vàng hay không. Người quốc gia công nhận lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ của chế độ VNCH. Từ lập trường này, chúng ta xác định công cuộc chiến đấu chống lại chế độ VGCS là để khôi phục lại chế độ Cộng Hoà đã bị CS tiêu diệt. Mục tiêu này tồn tại ít nữa là trong giai đoạn hiện nay, khi chế độ CS không còn nữa sẽ tính sau. Đây là vấn đề đặt lằn ranh rõ ràng giữa Quốc gia và những kẻ không phải là quốc gia, nhất là CS.
4.2 Từ cái khôn của người xưa
Như đã nói, không dễ dàng xác định chắc chắn được kẻ nào là CS nằm vùng, kẻ nào là tay sai của chúng nếu chỉ căn cứ vào lập trường không thôi. Không thiếu bọn chống cộng bịp cũng phất cờ vàng, cũng hô đả đảo CS. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bất lực. Ngoài việc căn cứ trên lập trường, còn có một cách khác giúp chúng ta là làm theo sự chỉ dậy khôn ngoan của người xưa, chẳng hạn:
- châm ngôn Pháp: Cho tôi biết anh thường lui tới với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. (Dis moi qui tu frequentes, et je te dirai qui tu es), hoặc
- tục ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hay như
- lời cố TT Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm.
Việc truy tìm CS căn cứ trên lập trường và dựa vào các tiêu chí trên có thể tin là chính xác. Lấy thí dụ trường hợp Nguyễn Chí Thiện. Nếu chỉ nghe Nguyễn Chí Thiện nói thì ai cũng cho ràng hắn là một người chống cộng thiệt. Hắn chửi CS hay, chào Cờ Vàng nghiêm chỉnh, đôi khi còn tham gia biểu tình nữa. Nhưng bởi vì Nguyễn Chí Thiện luôn cặp kè với bọn VT và nhất là còn theo Hoàng Minh Chính vô núi để bàn kế hoạch Tiểu Diên Hồng thì chắc chắn hắn là một tên chống cộng bịp, nếu không muốn nói là một điệp viên nằm vùng của VGCS.
NQ36 và vai trò của Việt Tân
Nói đến NQ36 mà bỏ quên vai trò của đảng Việt Tân thì thật là một thiếu sót không thể chấp nhận được. Nếu không có đảng VT, chắc chắn VGCS không thể luồn sâu vào trong các cộng đồng tỵ nạn như hiện nay. Nói cách khác, VT chính là công cụ VGCS sử dụng để thi hành NQ36.
Không ai không biết các sách lược đấu tranh của VT đã được quảng bá rộng rãi là:
1- Đối đầu bất bạo động để tháo gỡ độc tài,
2- Xây dựng xã hội dân sự để đặt nền tảng dân chủ, và
3- Vận động toàn dân để canh tân đất nước.
Thoạt nghe, cứ tưởng như là VT chống cộng có sách lược lắm, vì đó là sách lược mà. Nhưng cái đuôi HHHG đã lại lòi ra ngay: “Do đó, ngay từ bây giờ phải tập trung nỗ lực để gầy dựng tư thế và uy tín cho Việt Tân, để trong tương lai, khi áp lực đấu tranh buộc đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận mở ra bối cảnh sinh hoạt đa nguyên, Việt Tân đã trong tư thế sẵn sàng để đối đầu với đảng CSVN trong trận thế đấu tranh chính trị công khai (phỏng vấn BS Trần Xuân Ninh)". Thì ra sách lược của VT là dọn đường về nước để đấu tranh chính trị. Nói trắng ra là bắt tay hòa hợp với VGCS. Sách lược này, nếu do một đảng phái quốc gia lương thiện có một quá trình tranh đấu già dặn kinh nghiệm thì có thể tin tưởng được phần nào, mặc dầu vẫn biết nó đáng nghi ngờ. Nhưng nó lại được quảng bá từ một tổ chức thảo khấu bất lương để bịp bợm thì không ai tin được. Điều hết sức phi lý là tổ chức này, những con người này không những đã không bị pháp luật trừng trị, mà trái lại nó vẫn mặc sức tung hoành và có vẻ còn có thế giá đối với chính quyền Mỹ.
Câu hỏi là tại sao? Và đây là câu trả lời: vì VT là tay sai, là công cụ. Tổ chức này từ bước đầu mới thành lập, hồi còn có tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN, gọi tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nó đã bị khuynh loát và thao túng bởi phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, một con người tham tiền và bịp bợm. Từ đầu thập niên 1980 đến nay (năm 2009), về danh xưng tổ chức này đã thay đổi từ Mặt Trận thành Đảng. Về mặt sinh hoạt, nó đã biến thái qua ba giai đoạn từ một tổ chức kháng chiến bịp đến hình thức mafia chuyên gây tội ác, và hiện nay là công cụ cho các thế lực chính trị sử dụng để mưu giàn dựng ra cái gọi là hòa hợp hòa giải hầu thiết lập cho VN một thể chế dân chủ cuội sau này.
1. Giai đoạn kháng chiến bịp
Giai đoạn ngắn ngủi này là lúc ông HCM còn sống. Dán cái nhãn hiệu “bịp” vào tên tuổi của một tổ chức chống cộng giải phóng quê hương thứ thiệt là phạm đại tội. Nhưng ịn lên tên MT Hoàng cơ Minh chữ “bịp” thì đúng lắm. Báo chí gọi thế. Người dân tỵ nạn gọi thế. Không phải người viết gọi thế với ý xấu, bởi vì ông HCM dựng lên Mặt Trận để bịp thiệt. Khu chiến là khu chiến giả. Kháng chiến là kháng chiến bịp. Báo kháng chiến toàn phịa tin không có. Kháng chiến quân hơn một trăm người thì khoảng một trăm là thanh niên Miên, Lào được ông HCM thuê mướn để đóng phim. Thế nhưng ông HCM đã nhân con số lên thành 10.000 tay súng. Phịa để làm gì? Câu trả lời là lời ông Minh nói với đại tá Phạm Văn Liễu như sau: “Phải tuyên bố như vậy thì đồng bào mới cho tiền.” Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số tiền đồng bào ủng hộ MT được ước lượng không dưới 10 triệu dollars. Số tiền lớn này ông HCM trao cả cho người em ruột của ông là ông Hoàng Cơ Định. Ông Định có gởi sang Thái Lan cho ông Minh 160.000 dollars để dùng cho kháng chiến, nhưng ông Minh gởi trả lại ông Định bảo cứ giữ lại tại Mỹ.
Ông HCM còn đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng khác nữa do người Mỹ thuê mướn là xâm nhập các nước Việt, Miên, Lào để tìm lính Mỹ mất tích bị nghi là vẫn còn sống. Vấn đề này báo chí có nói qua, nhưng vì là việc của CIA nên chẳng bao giờ tìm ra dấu vết. Chứng cứ là câu nói của BS Lê Văn Trực được cụ Phạm Ngọc Lũy ghi lai: “…việc anh Minh (HCM) đi Thái Lan có bàn tay Mỹ chi phối, trước sau rồi cũng làm tay sai.” (Phạm Ngọc Lũy: Hồi Ký Một Đời Người, tập II, trang 10).
Những chuyện về MT và về người chủ sự của nó là phó đề đốc HCM kể thì nhiều lắm. Tài liệu chất cao bằng đầu. Tất cả đi đến kết luận ông HCM là một con người mưu mô, xảo quyệt, phản bội đồng chí, tàn ác với đồng đội, thiếu tư cách lãnh đạo nên không làm được việc lớn, tham quyền và nhất là tham tiền. Do đó không thể có chuyện gọi là “giải phóng đất nước”. Tất cả được gói gọn trong một chữ “Bịp”.
2. Giai đoạn trở thành Mafia
Sau khi ông HCM chết, MT biến thành tổ chức mafia người Việt tại hải ngoại. Tổ chức này về mặt nổi do Nguyễn Kim Huờn túc Nguyễn Kim, một người rất ít được biết đến trước đó, lãnh đạo, nhưng mọi chuyện đều bí mật nằm dưới sự chỉ đạo của Hoàng Cơ Định, người em cùng cha khác mẹ với HCM. Định là người trước năm 1975 đã bị sa thải khỏi trường Cao Đẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Saigon vì lý do tham nhũng. Ls Hoàng Duy Hùng đã trích dẫn báo cáo của cơ quan FBI nhận định về MT như sau: MT và CS nằm vùng đã xâm nhập vào mọi lãnh vực cộng đồng, vào các nhóm du đãng, trẻ em Mỹ lai, và vị thành niên để dụ dỗ và khống chế các em gia nhập các băng đảng tội ác như làm đĩ, buôn bán ma túy và vũ khí, chuyển ngân lậu v.v. Ngoài ra MT còn bị tố cáo tội giết người như các nhà báo Đạm Phong, Lê Triết. Điều cần nhấn mạnh là ông Hoàng Duy Hùng là một luật sư tốt nghiệp và hành nghề tại Mỹ nên những tài liệu ông trưng dẫn nói rằng của cơ qua FBI phải tuyệt đối tin là đúng. Chắc chắn ông Ls Hùng không dám ăn nói bạt mạng, đùa dỡn với FBI. Lại nữa trong phiên tòa gọi là MT kiện báo chí diễn ra tại quận hạt Santa Clara ngày 12-12-1994, ông trung sĩ cảnh sát Douglas Zwemke cũng đã xác nhận rằng cảnh sát có đủ bằng chứng MT lem nhem tiền bạc, oa trữ vũ khí để uy hiếp và hăm dọa, gian lận thuế má và sổ sách.
MT bị tố cáo tất cả gồm 39 tội danh mà hầu như đều là tội đại hình. Điều không hiểu nổi là cho đến nay luật pháp nước Mỹ vẫn không điều tra và truy tố bất cứ một ai. Pháp bất vị thân. Luật pháp quốc gia có trách nhiệm phải điều tra và truy tố các kẻ phạm pháp ra tòa để buộc chúng phải đền tội. Cảnh sát nói đã có bằng chứng MT vi phạm luật. MT đông như thế, chẳng lẽ mấy chục năm qua cảnh sát không tìm ra được lấy một tên tội phạm trong đó. Chuyện như giỡn chơi, thật sự không thể nào lý giải được trừ khi chúng ta đặt nó vào cái thế của bàn cờ chính trị của VN hiện nay.
3. Giai đoạn làm công cụ
Theo lý thì MT đã phải bị giải tán và những kẻ vi phạm luật pháp đã phải bị trừng trị. Thế nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Thái độ mắt nhắm mắt mở của cơ quan an ninh Mỹ đã mở ra con đường biến MT thành công cụ để sử dụng. Phương pháp dùng người kiểu này rất thường thấy trong lãnh vực tình báo. Nó cũng không khác mấy chuyện công an CS dùng bọn côn đồ tội phạm để dẹp biểu tình của giáo dân.
Sau khi được tha bổng và được sử dung, MT mới bắt đầu lột xác biến thành đảng chính trị với cái tên là Việt Tân, công khai ra mắt tại Đức ngày 19-9-2004. Thực ra đảng VT đã được thành lập từ tháng 9-1982 gần đồng thời vói MT. Đảng và MT tuy hai nhưng chỉ là một. Chủ tịch đảng Đỗ Hoàng Điềm của VT hiện nay là một người trước đây ít có ai biết tiếng. Lý Thái Hùng, tổng bí thư, đuợc nhận diện là Bùi Minh Đoàn, và bị tố cáo là CS. Hoàng Cơ Định vẫn là người nắm giữ tiền bạc của đảng. Nhưng dư luận lại tin Nguyễn Xuân Nghĩa cháu tên cựu TBT đảng CSVN Nguyễn Văn Linh mới thực sự là linh hồn của đảng VT.
Chính phủ Mỹ sử dụng một đảng chính trị chủ trương chung sống hòa bình với CS, lại được lãnh đạo bởi các cán bộ CS thì cầm chắc là VGCS sẽ rất hài lòng. Luật pháp Mỹ không cho phép bất cứ một tổ chức nào ở Mỹ chủ trương đấu tranh lật đổ một chính phủ ngoại quốc bằng vũ lực mà nước Mỹ có thiết lập bang giao. MT chủ trương lật đổ nhà nước VGCS bằng vũ lực, do đó bắt buộc phải đổi thành đảng VT với chủ trương bắt tay hòa hơp với VGCS. Đó là lý do bắt buộc MT phải biến thành đảng VT để được phép hoạt động trên đất Mỹ. Vấn đề quan trọng ở đây là tại sao lại nói VT thực hiện NQ36 của VGCS. Để có câu trả lời, chúng ta cần trở về thời gian khoảng hơn mười năm về trước. Một lần sau khi ông Dennis Harter, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN nói chuyện với cộng đồng người tỵ nạn tại Houston, Texas, hai nhà báo Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cường viết bài tường thuật trên báo Ngày Nay nhận định rằng: nếu chúng ta đừng nghe những gì CS và HK nói, mà hãy nhìn vào những gì CS và HK làm, thì qua phần đối đáp của ông Harter, người ta có thể kết luận mà ít sợ sai lầm là hiện nay HK và VN quả thật đang cùng dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của một lộ trình Diễn Biến Hòa Bình. Kể như đã rõ ràng. Mỹ và CS bắt tay tiền chế một chế độ hòa hợp đa đảng tại VN mà VT là nhóm người được chọn lựa để làm đối lập với CS. Từ đó cho tới nay VT đã rất tích cực thi hành nhiệm vụ làm công cụ của mình. Những việc VT làm báo chí đề cập đến hàng ngày, vậy xin được miễn nhắc lại. Nói một cách tổng quát thì là một đàng ở trong nước, VT cấu kết với những thành phần dân chủ cuội trương chiêu bài tranh đấu đòi Dân Chủ. Một đàng tại hải ngoại, VT dựa vào sự yểm trợ ngầm của Mỹ, thi hành NQ36 trong cộng đồng tỵ nạn để xâm nhập, lũng đoạn, và lèo lái cộng đồng đi đến quên quá khứ, xóa hận thù hầu chấp nhận sống chung với VGCS. Đã có những chỉ dấu cho thấy các nhân vật tranh đấu trong và ngoài nước liên kết thành những tập thể đối lập giả hiệu do VT điều hợp dưới sự chỉ đạo ngầm của cả Mỹ lẫn VGCS. Đó là diễn biến hòa bình mà các ký giả Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cuờng đã nói tới.
Nên biết rằng trở ngại lớn nhất của diễn biến hòa bình là sự chống đối của người Việt tỵ nạn. VGCS coi khối người tỵ nạn là trở ngại đã đành, nhưng ngay cả chính quyền Mỹ cũng vậy. Chính quyền Mỹ sợ dư luận. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của nền dân chủ Mỹ là dư luận của quần chúng. Cả hành pháp lẫn lập pháp đều sợ dư luận, vì dư luận nói cụ thể ra là lá phiếu của cử tri. Hành pháp Mỹ dám giết tổng thống của một quốc gia, dám đem quân bắt tổng thống của nước khác đem về nhốt tại Mỹ, dám tống cổ một nước bạn thâm tình ra khỏi tòa nhà Liên Hiệp Quốc, dám xóa tên một nước có chủ quyền trên bản đồ thế giới, nhưng họ lại không dám đi ngược lại ý muốn của dân chúng Mỹ. Chính giới Mỹ sẵn sàng tạo ra dư luận để hoàn thành một mục tiêu nào đó cho mình. Phong trào phản chiến trước 1975 nếu không được thúc đẩy bới bàn tay lông lá thì khó lên cao được như đã thấy. Cho nên để thực hiện diễn biến hòa bình với VGCS, Chính phủ Mỹ trước tiên phải dẹp đi sức đấu tranh của khối người tỵ nạn. Kẻ đứng ra làm công cụ là VT. Phương pháp thông thường như đã nói trên vẫn là “Dĩ di công di”, tức là lấy tỵ nạn diệt tỵ nạn.
4. Một vấn đề ngoài lề
Bài viết đã dài. Đến đây coi như đã có thể kết thúc, chỉ còn phần kết luận. Ngưòi viết muốn nhân cơ hội đặt vấn đề với các quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đang là thành viên của đảng VT nên mới có vấn đề ngoài lề như thế này. Ý thức rằng QLVNCH trước kia và bây giờ vẫn là lưc lượng chủ lực chống cộng hữu hiệu nhất. Sự mất mát lớn lao nhất cho hàng ngũ người quốc gia yêu nước là việc một số không nhỏ quí vị quân nhân chạy theo băng đảng VT. Sự phản phúc của băng đảng VT thì đã rõ ràng, không còn gì phải nói. Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra là với tư cách là thành viên của đảng VT, việc đấu tranh của quí vị sẽ đem lại lợi ích gì cho đất nước. Quí vị đã dâng hiến cho Tổ Quốc nửa cuộc đời thanh xuân, coi như đã trả xong nợ sông núi. Không lẽ nửa quãng đời còn lại quí vị lại quay đầu lại với Tổ Quốc. Quí vị gia nhập đảng VT chính là hành vi đối đầu với Tổ Quốc, phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy.
Trước hết, quí vị đối đầu với Tổ Quốc với ảo tưởng rằng theo VT được Mỹ ủng hộ là quí vị đấu tranh cho tự do dân chủ tại VN. Quí vị lầm rồi. Bao nhiêu chuyện VGCS đàn áp nhân dân ta ở trong nước, Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ ỏ Hànội có bao giờ có biện pháp gì cụ thể giúp đâu, hay là chỉ ẫm ờ cho qua chuyện. Nhìn về quá khứ các năm 63, 75, lúc đó dù không có chuyện, chính quyền Mỹ cũng tạo ra cho có, chuyện nhỏ họ thổi lên thành chuyện lớn. Để làm gì thì mọi người đã thấy và lịch sử đã ghi chép đầy đủ. Đấy là cách thức chính quyền Mỹ giúp đỡ người quốc gia chúng ta. Người Việt tỵ nạn, nhất là các quân nhân QLVNVH cần nhìn và hiểu thấu đáo cái THẾ chính trị này. TT George W. Bush tiếp Đỗ Hoàng Điềm tại tòa Bạch Ốc được coi là một hình thức thừa nhận (endorse) VT cho người Việt tỵ nạn nhìn thấy mà theo. Nhưng đối với người tỵ nạn, hành động của Bush chẳng qua chỉ là để tưởng thưởng VT cũng giống như một ông chủ vuốt ve con chó trung thành và biết giữ nhà. Đừng có cho chuyện đó là quan trọng. Mỹ trở lại VN, đó là vì nhu cầu của nước Mỹ. VN cần Mỹ giúp, đó là một lợi ích thiết thực. Nhưng vấn đề là quan hệ và sư hợp tác hai bên đặt trên căn bản nào. Kinh nghiệm và lịch sử dậy chúng ta rằng, nếu chúng ta mạnh, người Mỹ sẽ giúp chúng ta trong tư thế bạn bè. Còn nếu chúng ta yếu, họ sẽ giúp chúng ta trên tư thế của một ông chủ đối với đầy tớ. VT làm công cụ cho một chính quyền đã bức tử chế độ VNCH tức là họ đã đối đầu với Tổ Quốc. Tin rằng Mỹ thừa nhận đảng VT tức là Mỹ giúp người quốc gia tiêu diệt CS? Xin đừng mơ ngủ nữa. Mở mắt ra mà nhìn đi.
Thứ nữa là quí vị đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình khi quí vị chạy theo VT mà quí vị không thấy. Xin hỏi VT ca ngợi VGCS là ái quốc có phải là họ gián tiếp kết án QLVNCH phản quốc không? Câu trả lời nhất định phải là đúng. Như vậy người quân nhân QLVNCH chạy theo VT là họ đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy. VT chối bỏ tư cách tỵ nạn với việc biến ngày Quốc Hận 30-4 thành ngày Tự Do cho VN. VT phỉ báng chính nghĩa quốc gia, ca tụng VGCS qua sự kiện cho tên CS Hà Dương Dực lên đài phát thanh hạ nhục QLVNCH, đề cao quân cướp VGCS. VT công nhận Hồ Chí Minh có công đối với đất nước và đảng VGCS là một thành phần dân tộc v.v. Cứ cho rằng những việc động trời đó là những sai lầm không đáng kể do đảng viên cấp dưới không ý thức đúng lập trường và đường lối của đảng. Nhưng thử hỏi khi trung ương đảng VT công khai ca tụng VGCS là ái quốc thì sao đây? Đây không phải chuyện nhỏ nhặt mà là vấn đề quan điểm, quan điểm về lòng yêu nước. Chỉ cần đặt ra một câu hỏi với VT: “thế nào là yêu nước” thì đã đủ để lột mặt nạ của VT xuống rồi. Nêu trường hợp cụ thể xem VT có cãi được không. Cách đây không lâu khi Nguyễn Hộ, một tên CS cực kỳ hung ác và khát máu chết, trung ương đảng VT tức tốc gởi đi khắp thế giới lời phân ưu với gia đình Nguyễn Hộ, ca tụng hắn là một nhà ái quốc. Nguyễn Hộ là ai thì hẳn người quốc gia ở miền Nam, nhất là vùng Saigon, Cholon không ai không biết. Hắn là kẻ giết người không run tay. Hắn công khai tuyên bố chính sách đối xử với quân, cán, chính VNCH khi hắn vào Saigon năm 1975 như sau: Nhà chúng, ta ở, vợ chúng, ta lấy, con cái chúng, ta bắt làm nô lệ, còn chúng, ta cho đi cải tạo không có ngày về. Một tên CS ác ôn như vậy mà đảng VT ca ngợi là một nhà ái quốc. Nếu Nguyễn Hộ ái quốc thì các vị tướng, tá QLVNCH như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn v.v. là thế nào? Nhất định là phản quốc chứ gì, có đúng không? Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Hộ, hai người bắn giết nhau ngoài mặt trận vì vấn đề đất nước. Nếu Nguyễn Hộ được kể là yêu nước thì Nguyễn Khoa Nam nhất định phải là phản quốc. Đấy là logic của lý luận. Lại nữa, nếu TT Nguyễn Khoa Nam, ĐT Hồ Ngọc Cẩn v.v. là phản quốc thì cả tập thể QLVNCH cũng kể là phản quốc luôn. Đây cũng là logic của lý luận. Quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đầu quân theo VT nghĩ sao đây, xin quí vị hãy lựa chọn chỗ đứng: là người “yêu nước” như tên CS ác ôn Nguyễn Hộ, hay là kẻ phản quốc như Nguyễn Khoa Nam, như Hồ Ngọc Cẩn? Nếu quí vị chọn chỗ đứng bên cạnh Nguyễn Hộ thì đích thực quí vị đã phản bội lại QLVNCH, phản bội đồng đội, và phản bội chính quí vị rồi vậy.
Kết Luận
Bài viết này chấm dứt đúng vào lúc phong trào tố giác bọn đón gió trở cờ lên cao. Người viết tự tin rằng mình làm đúng và còn có rất nhiều đồng minh. Vô hiệu hóa hay chống lại NQ36 của VGCS là vấn đề sinh tử của người VN tỵ nạn CS. Đây là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng ta thua, về danh nghĩa, chúng ta sẽ bị VGCS coi là kiều bào của chúng sinh sống tại hải ngoại. Khó còn cơ hội để phục quốc. Còn như nếu thắng, chúng ta còn có cơ hội đấu lại ván cờ. Như trên chúng tôi đã nói, VGCS đang áp dụng phương pháp “Dĩ di công di” để chinh phục đồng bào tỵ nạn chúng ta. Để dành được thắng lợi trong trận chiến sinh tử này, trước hết và trên hết, chúng ta phải tiêu diệt hết những kẻ núp vào cái vỏ bọc tỵ nạn để đánh phá chúng ta. Đây là con đường duy nhất, không có sự lựa chọn nào khác. Đánh Việt gian, diệt VC, đuổi xâm lược là tiến trình hợp lý nhất để cứu đất nước.
(tiếp theo và hết)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Tác dụng gây phân hóa
Điều đáng lo ngại nhất cho công cuộc chống cộng là cái nón cối, biểu tượng của NQ36, đã trở thành một thứ vũ khí giết người rất nguy hiểm trong cộng đồng chúng ta. Một người nào đó không phải là CS bị đội cái nón cối lên đầu là chết bỏ mẹ rồi. Dư luận thiếu hiểu biết cứ thế mà đâm, chém, bắn, giết cách nào tùy ý. Sự thật không phủ nhận được là nạn chụp nón cối lên đầu nhau đã trở thành loạn. Tình trạng này càng ngày càng làm phân hóa cộng đồng, làm chán nản tất cả mọi người có thiện chí, và tất nhiên chỉ có VGCS được hưởng lợi. Có trường hợp kẻ bị đội nón cối là CS thiệt. Nhưng cũng chắc chắn có trường hợp sai. Sai không ít. Có người than đây là cuộc chiến phe mình đánh phe ta. Cũng có phần đúng. VGCS giống như kẻ đứng ngoài, thản nhiên. Chúng không trực tiếp nhúng tay vào mà chỉ khoanh tay đứng nhìn chúng ta đấu đá nhau như người La Mã xưa xem giác đấu tại hí trường Colosseum. Thật sự là như thế.
Tác dụng của NQ36 xem ra đã định hướng được đường lối chống cộng của không ít các thành phần trong cộng đồng tỵ nạn tại hải ngoại. Kể từ khi có NQ36, cộng đồng tỵ nạn đã hết còn thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất lập trường và đường lối. Hiệu lực của Nghị Quyết là nó biến đổi khuynh hướng chống cộng thành chống đối lẫn nhau trong cộng đồng. Về điểm này hiện thấy có 3 khuynh hướng khá rõ rệt: chống theo cảm tính, chống theo phe cánh, và chống vì cảm thấy bất lực.
1. Chống theo cảm tính
Khuynh hướng chống cộng theo cảm tính làm phát sinh ra tinh thần suy tôn lãnh tụ. Sau khi TT Ngô Đình Diệm bị bọn phản tướng giết chết, đất nước không còn lãnh đạo. Các lãnh tụ đảng phái, những người chống đối TT Diệm đã có cơ hội cầm cờ trong tay nhưng đều đã không biết phất. Sự thể chứng minh họ rất dở về chính trị nhưng lại muốn làm lớn. Kết quả là họ mất niềm tin của quần chúng. Khi đã hết tin vào các lãnh tụ chính trị, người dân đi tìm sự lãnh đạo chính trị ở tôn giáo. Tìm được rồi, họ biến lãnh đạo tôn giáo thành thần tượng, và chính xác hơn là taboo, ai dám đụng đến sẽ bị chụp ngay cái nón cối lên đầu.
Việc đi tìm minh chủ là điều tốt. Nhưng về mặt chính trị, nâng con người lên hàng thần tượng và biến thành taboo thì không nên. Một khi thần tượng chỉ là một khúc gỗ rỗng ruột thì bàn thờ hương hoa bánh trái sẽ trở thành nơi cho dán chuột đến tung hoành. Thực trạng đất nước cho thấy tôn giáo lãnh đạo chính trị đã làm đất nước khốn đốn thêm. Sự thật khách quan sờ sờ chẳng mấy ai tin mà chỉ nhắm mắt tin chết vào những gì họ cảm nhận là đúng. Dân chúng và cả bọn chính khách xôi thịt chạy theo cha, sư, không cần biết lập trường và đường lối ra sao, thí dụ như:
* HT Thích Quảng Độ - HT Thích Quảng Độ chống bọn lãnh đạo Hànội thì rõ ràng rồi, nhưng nói rằng ngài chống cộng sản thì cần phải xét lại. Bởi vì, nếu HT Quảng Độ chống CS thiệt thì ngài đã không yêu cầu VGCS triệu tập và chủ sự một hội nghị gồm cả người tỵ nạn lẫn bọn VGCS. Đây là một hình thức HHHG với VGCS. Sự thể có thể hiểu là HT Quảng Độ đã mặc nhiên thừa nhận cái cơ chế gọi là đảng và nhà nước VGCS. Như thế sao bảo là HT Quảng Độ chống cộng. Việc xưa kia cũng thế. Chế độ Cộng Hòa tại miền Nam dù thế nào cũng là bước khởi đầu tốt thực thi các quyền tự do dân chủ cho người dân VN. Nếu các Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu có phạm sai lầm thì cũng chỉ nên truất phế đi thôi, tại sao HT lại tiếp tay cho VGCS triệt hạ đi cả chế độ. HT Thích Quảng Độ đã dấn thân vào việc dẹp bỏ chế độ của miền Nam. Vậy thì thật là vô lý nếu cho rằng bây giờ ngài lại tranh đấu đòi phục sinh cho cái chế độ đó. Những việc như thế làm người ta không hiểu được mục tiêu “chống” của HT Thích Quảng Độ là gì? Ngài có thực sự chống cộng không?
* Lm Phan Văn Lợi - Lm Lợi hiện nay trở thành một chính trị gia ở trong nước nhưng chạy show ăn khách tại hải ngoại, và là thần tượng chống cộng của nhiều người. Chính vì cái hào quang sáng quá nên không ai thấy bên cạnh ông linh mục lại có hai vị đại pháp sư nổi tiếng kèm hai bên. Cả hai đều xuất thân là cháu ngoan bác Hồ. Đại pháp sư Đỗ Nam Hải được VT đặc phái tả phù cho cha Lợi. Hữu bật là đại pháp sư Trần Anh Kim, nguyên trung tá chính ủy do đảng Dân Chủ cuội của Hoàng Minh Chính đặt để. Lm Nguyễn Văn Lý dốc tâm huyết gầy dựng nên khối 8406. Nay Lm Phan Văn Lợi đặt khối vào tay hai nhà phù thủy làm thành một bộ ba lãnh đạo để vô hiệu hóa hoạt động của khối và chích thuốc trợ tử cho tổ chức đấu tranh này. Đỗ Nam Hải đẩy Nguyễn Chánh Kết qua Mỹ cho bọn VT đưa lên giàn hỏa. Trần Anh Kim ký bổ nhiệm GS Nguyễn Xuân Vinh làm đại diện Khối 8406 tại Mỹ cùng với một lô thành phần bát nháo khác. GS Vinh là người thế nào và bọn bát nháo chống cộng ra làm sao thì người ta đã biết. Thực tế cho thấy, Lm Phan Văn Lợi cho dù thần thông đến đâu cũng không địch lại pháp thuật của yêu quái.
* Thứ ba, Lm Nguyễn Hữu Lễ - Cha Lễ cũng vậy. Khi ngài ngả vào bàn tay của VT thì việc đầu tiên là ngài dùng quyền năng và uy tín của một linh mục để rửa tội cho tên cáo già Hồ Chí Minh, xóa sạch đi cái đại tội Việt gian bán nước của hắn. Tên tội đồ chỉ còn trơ lại là một con người trần tục bình thường với những đam mê của nó. Sau khi xem DVD của cha Lễ, người tỵ nạn đã tối mắt rồi, còn phải bù đầu cầy cuốc nữa nên không có thì giờ đọc những tên dân chủ cuội trong nước ca tụng Hồ. Ít khi được nghe một bản hợp xướng nhịp nhàng như thế. Cuối cùng làm nổi bật lên Hồ là người có công lớn đối với đất nước. Tội của “bác” chỉ là sự thể hiện tính tự nhiên nơi con người. Luận điệu rập khuôn như VT công bố trên báo chí: Hồ Chí Minh là người có công với đất nước và đảng CS là một thành phần của dân tộc.
2. Chống theo phe cánh
Tinh thần bè phái hình như đã trở thành đặc tính của người Việt tỵ nạn hiện nay. Kết bè để chống cộng thì hết thuốc chữa. Chẳng hạn như chuyện vợ chồng ông Dương Văn Liêm, Lưu Lệ Ngọc quan hệ với VGCS đã là một sự thật hiển nhiên, được chính đương sự xác nhận trên đài VNHN. Thế mà các ông Nguyễn Tường Thược, Nguyễn Đăng Tuấn vẫn cứ gân cổ lên bênh cho bằng được. Ông Nguyễn Đăng Tuấn lại là đương kim chủ tịch Văn Bút VN Hải Ngoại đấy nhá. Không bè phái là gì? Sự kết bè kéo cánh của đám dân chủ cuội và bọn chống cộng bịp diễn ra khá lộ liễu.
Hiện tượng hết sức tiếu lâm mà ai cũng thấy rõ là hễ bất cứ ai đụng đến Nguyễn Chí Thiện là bà Bút Vàng nhẩy đông đổng lên bênh và chửi người ta là CS. Nhưng Nguyễn Chí Thiện là ai thì bây giờ mặt nạ của hắn đã rớt rồi. Thiện có đi diễn thuyết nhiều nơi. Đôi khi Thiện có tham gia biểu tình chống cộng. Thiện giấu đầu nhưng lại hở đuôi. Hắn lén lút theo Hoàng Minh Chính, Bùi Tín v.v. vào rừng giàn dựng ra màn kịch Tiểu Diên Hồng để HHHG với CS thì người ta đã nhìn thấy cái đuôi chồn của hắn. Chưa nói đến vụ Nguyễn Chí Thiện lý lịch bất minh, Nguyễn Chí Thiện hành động quanh co mờ ám chung quanh tập thơ Vô Đề.
Một điển hình khác về kiểu chống theo phe nhóm là trường hợp một số nhân vật vây quanh Bùi Tín tỷ như Phan Nhật Nam, Chu Tất Tiến, Trần Phong Vũ v.v.. Nhóm này bảo vệ Bùi Tín và bọn phản tỉnh cuội đỡ ồn ào hơn nhưng cũng quyết liệt lắm. Trần Phong Vũ nhất quyết rằng Bùi Tín đã hoàn toàn phản tỉnh. Thế nhưng Bùi Tín có phản tỉnh thật không thì xin xem đây. Mới ra khỏi nước Bùi Tín tuyên bố: “Tôi có vị thế của tôi, tôi có liên hệ với trong nước. Thức tỉnh trong nước là điều quan trọng. Cộng sản có những thành tích, cộng sản có những giá trị. Tôi là người cộng sản đến nay đã 45 năm. Chủ nghĩa Marx là phát minh khoa học, là một giá trị. Thuyết giá trị thặng dư của Marx là một giá trị.Duy vật biện chứng pháp là giá trị đóng góp vào kho tàng văn hóa nhân loại.” (Báo Khỏe Đẹp, mục Sinh Hoạt Cộng Đồng, số 355 ngày 13-12-1991). Cho đến nay, lập trường Bùi Tín vẫn không thay đổi. Hắn vẫn từ chối chào lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ, vẫn giao du thân mật với đám dân chủ cuội như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần, Hà Sĩ Phu v.v., vẫn chẳng bao giờ tham dự các cuộc biểu tình chống cộng của người tỵ nạn. Bùi Tín phản tỉnh ở chỗ nào. Bọn chống cộng bịp ở hải ngoại không chịu hiểu rằng Bùi Tín chỉ chống những tên CS đang cầm quyền vì khác phe phái và vì tranh ăn. Bản thân Bùi Tín vẫn là một tên CS từ bản chất. Bùi Tín vẫn luôn luôn tôn thờ và bảo vệ tên tội đồ bán nước và đảng ngụy quyền tay sai của hắn.
Trong nhóm chống cộng bịp, người to tiếng là ông nhà văn Chu Tất Tiến. Ông viết cho tờ báo Người Việt. Ông tấn công CS ở tận bên VN, nhưng tên chủ báo của ông ở ngay trước mắt ông là CS thì ông lại không thấy. Ông viễn thị nặng hay là tinh thần bè phái? Chuyện ông làm dân vận bọn trẻ trong nước mới thật là lố bịch. Ông trưng dẫn lịch sử sai tùm lum. Nhà báo Nam Nhân sửa sai cho ông thì ông chụp nón cối lên đầu người ta. Ông viết Hai Bà Trưng xuất thân từ giai cấp nông dân đứng lên làm cách mạng thì bọn trẻ ở trong nước nín cười hết nổi, mà chắc nín thở luôn. Hai Bà Trưng là con gái quan Lạc Tướng ở Mê Linh, giai cấp quí tộc chứ đâu phải con nông dân. Ông Chu Tất Tiến muốn bắt chước sử gia Phạm Văn Sơn viết Hai Bà làm cách mạng. Sử gia Phạm Văn Sơn dùng chữ cách mạng theo nghĩa Hai Bà dành lại được quyền tự chủ từ chế độ Hán thuộc. Thế nhưng ông Chu Tất Tiến muốn phịa ra rằng Hai Bà là thành phần bần cố nông đứng lên làm cuộc cách mạng vô sản như “Bác Hồ” của bọn trẻ trong nước. Dân vận bọn trẻ quàng khăn đỏ như thế thì hết sẩy rồi. Sự thực Hai Bà chỉ thiết lập một nhà nước phong kiến thô sơ ở nước ta sau khi đánh đuổi quân Hán, thu phục 60 thành trì, chứ đâu phải cách mạng vô sản, hữu sản gì.
3. Chống vì cảm thấy bất lực
Phải thừa nhận một sự thật là tinh thần chống cộng của cộng đồng tỵ nạn càng ngày càng yếu đi trong khi CS càng ngày càng thắng thế mặc dầu cuộc đấu tranh diễn ra ngay tại Mỹ. Như chúng tôi đã phân tích trong phần Hậu Quả Của Xâm Nhập trên đây, trong cộng đồng, một số không nhỏ đã đầu hàng VGCS vì nhiều lý do: tiền bạc, danh vọng, cảm tình gia đình, bị bắt bí v.v. Đa số chán nản buông xuôi và trùm chăn. Chỉ còn lại một thiểu số có tâm huyết vẫn kiên trì chiến đấu nhưng cảm thấy bất lực. Chiến đấu với tình trạng tâm lý như thế thật khó giữ được bình tĩnh. Rất nhiều bài viết phê phán gay gắt những khuynh hướng ngả theo CS xuất hiện trong lúc gần đây biểu lộ khuynh hướng đó. Tác giả thường bị bọn chống cộng bịp bắt bẻ là bạ cái gì cũng chửi, bạ ai cũng chống. Thử công minh một chút xem. Hoàng Minh Chính định lùa người Việt tỵ nạn vào cái tròng HHHG qua đề nghi cái bàn tròn Tiểu Diên Hồng. Chống có đúng không? Phê bình ông Nguyễn Bá Cẩn xì xụp vái lậy trước bàn thờ tên dân chủ cuội HMC. Sai ở chỗ nào? Vậy thì vấn đề không phải ai cũng chửi, cái gì cũng chống, mà là ở chỗ chửi có đúng và chống có đúng không. Dùng từ “chửi” và từ “đánh phá” để buộc tội những bài viết trung thực đã là điều bất công. Kết tội là CS lại càng bất nhân và bất công hơn nữa. Đành rằng có văn nô hoặc bồi bút len lỏi đánh phá trên các diễn đàn. Nhưng tuyệt đối không phải bài phê bình nào cũng là của CS cả. Để xác định một bài viết có do CS tung ra hay không, chỉ cần đọc nội dung của nó, phê bình đúng hay sai, có ý hướng xây dựng hay chỉ cố ý đả phá. Tiếng nói của người chính trực thường là những lời cảnh tỉnh. Mặc dù họ không phải là tiên tri, nhưng lời của họ giống như của các tiên tri Do Thái ngày xưa: thẳng thắn, mạnh bạo, và rất chói tai. Việc họ làm là cảnh giác dân chúng trước những nguy vong của đất nước.
Nếu đã nhìn nhận tình hình chống cộng và tình trạng chống nhau trong cộng đồng hiện nay đáng bi quan thì những tiếng nói phê phán trung thực nhất định là cần thiết. Thế nhưng điều hết sức bi quan là, những tên CS hoặc tay sai bị tố cáo có bằng chứng, có cơ sở thì lại không mấy người tin. Trái lại, những lời tố cáo hoặc chụp mũ nhau không dựa trên một bằng chứng nào hoặc một căn bản lý luận nào thì lại lắm người nghe theo. Lối chống cộng theo cảm tính hoặc nặng tinh thần phe phái đã trở thành khuynh hướng hành động theo định huớng đúng như CS mong muốn. Định hướng cuộc chống cộng của người tỵ nạn theo chiều hướng có lợi cho CS về lâu về dài là sách lược quan trọng của NQ36.
4. Để lật tẩy cộng sản
Để chận đứng tình trạng tai hại này, người quốc gia trước hết cần xác tín rằng có VGCS xâm nhập để cảnh giác. Vấn đề sau đó cần đặt ra là làm thế nào để có thể nhận diện chính xác được các tên VGCS và tay sai của chúng. Khó khăn của chúng ta là chẳng có tên CS nằm vùng nào mang giấy tờ tùy thân. Chúng ta cũng không có quyền hạch hỏi công chứng thư của chúng. Như vậy thì chỉ còn cách là phải căn cứ vào lập trưòng mà thẩm định. Nếu cần nữa thì phải nhờ đến túi khôn của người xưa để lại, tức là cách luận việc để biết người.
4.1 Căn cứ trên lập trường
Quốc Gia và CS là hai thực tế đối kháng lẫn nhau cả về lý thuyết lẫn hành động. Về mặt lý thuyết, xin nhấn mạnh chữ đối kháng mà không phải là đối lập. Đối kháng mang ý nghĩa phủ định và triệt tiêu lẫn nhau, trong khi đối lập chấp nhận nhau để cùng cạnh tranh sinh tồn. Lập trường của người tỵ nạn là lập trường dân tộc (quốc gia). Cộng sản là một khái niệm quốc tế, nó phủ nhận dân tộc tính nơi mỗi con người. Do đó, quốc gia và cộng sản không thể nào đứng chung và không thể nào cùng tồn tại, trái lại, luôn loại trừ nhau. Đó là khái niệm cơ bản về lằn ranh quốc gia và cộng sản.
Trong tình trạng vàng thau lẫn lộn hiện nay, căn cứ vào lập trường chính trị, tạm có thể xác định một người nào đó là ai: CS hay quốc gia, hoặc thành phần thứ ba. Thành phần nửa nạc nửa mỡ thứ ba thường tự nhận là những người đứng giữa, bao gồm những kẻ chủ trương đa nguyên đa đảng, những kẻ đấu tranh đòi bỏ điều 4 Hiến pháp, nhũng kẻ thừa nhận Hồ Chí Minh có công đối với Dân Tộc v.v. Những thành phần này không hẳn là CS nhưng chắc chắn không phải quốc gia căn cứ vào khái niệm lập trường quốc, cộng vừa nói. Trên thực tế họ đã chấp nhận đầu hàng CS rồi. Họ chỉ đấu tranh đòi chia quyền và chia tiền với CS. Chủ trương của người quốc gia là phải xóa bỏ hẳn chế độ CS, nhổ tận gốc những ảnh hưởng gian ác của chúng để xây dựng một đất nước VN mới, tự do và dân chủ thực sự, hùng mạnh về kinh tế, còn phải đạo đức trong lối sống. Trong chính thể tương lai, nếu vẫn còn sự hiện diện của đảng CS thì chỉ với sức mạnh kinh tế của chúng, CS vẫn thừa sức thao túng nền chính trị quốc gia. Hiện nay, tất cả guồng máy kinh tế của đất nước đều đã nằm gọn trong tay bọn đảng viên CS rồi. Nói thế không phải để buông xuôi, mà là để biết mình, biết người hầu tìm ra cách đối phó hữu hiệu hơn. Phải tự tin vì người quốc gia có một lợi thế rất lớn, hơn CS rất nhiều. Đó là lòng dân:
Đắc cương thổ nhi thất nhân tâm, tất bại.
Thất cương thổ nhi đắc nhân tâm, tất thắng.
(được đất đai nhưng mất lòng người, tất bại. Trái lại, mất đất đai nhưng được lòng người tất thắng). Hiện nay VGCS chiếm được nước nhưng chúng đã hoàn toàn mất lòng dân. Ngược lại, người quốc gia phải lưu vong tỵ nạn nhưng vẫn được người dân trong nưóc yêu mến, hướng về. Như vậy thì tại sao chúng ta lại phải đầu hàng CS?
Sự khác biệt hệ ý thức quốc/cộng đã đưa đến cuộc chiến tranh VN trong suốt 3 chục năm và hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay. Thực tế chiến tranh VN cho thấy trên lý thuyết tuy đối kháng lẫn nhau, nhưng suốt 2/3 thế kỷ nay, không phải người Quốc Gia, mà chỉ có CS luôn truy lùng, đàn áp, bắt bớ, bỏ tù, và xâm lấn người quốc gia không ngừng nghỉ. Ngưòi quốc gia chạy ra nước ngoài rồi vẫn còn bị CS theo đuổi để chinh phục. Như thế, người quốc gia chống lại CS là chuyện bắt buộc. Về thực hành, cách thực tế nhất để phân biệt quốc gia với CS là căn cứ vào việc có chấp nhận lá Cờ Vàng hay không. Người quốc gia công nhận lá Cờ Vàng 3 sọc đỏ của chế độ VNCH. Từ lập trường này, chúng ta xác định công cuộc chiến đấu chống lại chế độ VGCS là để khôi phục lại chế độ Cộng Hoà đã bị CS tiêu diệt. Mục tiêu này tồn tại ít nữa là trong giai đoạn hiện nay, khi chế độ CS không còn nữa sẽ tính sau. Đây là vấn đề đặt lằn ranh rõ ràng giữa Quốc gia và những kẻ không phải là quốc gia, nhất là CS.
4.2 Từ cái khôn của người xưa
Như đã nói, không dễ dàng xác định chắc chắn được kẻ nào là CS nằm vùng, kẻ nào là tay sai của chúng nếu chỉ căn cứ vào lập trường không thôi. Không thiếu bọn chống cộng bịp cũng phất cờ vàng, cũng hô đả đảo CS. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bất lực. Ngoài việc căn cứ trên lập trường, còn có một cách khác giúp chúng ta là làm theo sự chỉ dậy khôn ngoan của người xưa, chẳng hạn:
- châm ngôn Pháp: Cho tôi biết anh thường lui tới với những ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. (Dis moi qui tu frequentes, et je te dirai qui tu es), hoặc
- tục ngữ: Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, hay như
- lời cố TT Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì CS làm.
Việc truy tìm CS căn cứ trên lập trường và dựa vào các tiêu chí trên có thể tin là chính xác. Lấy thí dụ trường hợp Nguyễn Chí Thiện. Nếu chỉ nghe Nguyễn Chí Thiện nói thì ai cũng cho ràng hắn là một người chống cộng thiệt. Hắn chửi CS hay, chào Cờ Vàng nghiêm chỉnh, đôi khi còn tham gia biểu tình nữa. Nhưng bởi vì Nguyễn Chí Thiện luôn cặp kè với bọn VT và nhất là còn theo Hoàng Minh Chính vô núi để bàn kế hoạch Tiểu Diên Hồng thì chắc chắn hắn là một tên chống cộng bịp, nếu không muốn nói là một điệp viên nằm vùng của VGCS.
NQ36 và vai trò của Việt Tân
Nói đến NQ36 mà bỏ quên vai trò của đảng Việt Tân thì thật là một thiếu sót không thể chấp nhận được. Nếu không có đảng VT, chắc chắn VGCS không thể luồn sâu vào trong các cộng đồng tỵ nạn như hiện nay. Nói cách khác, VT chính là công cụ VGCS sử dụng để thi hành NQ36.
Không ai không biết các sách lược đấu tranh của VT đã được quảng bá rộng rãi là:
1- Đối đầu bất bạo động để tháo gỡ độc tài,
2- Xây dựng xã hội dân sự để đặt nền tảng dân chủ, và
3- Vận động toàn dân để canh tân đất nước.
Thoạt nghe, cứ tưởng như là VT chống cộng có sách lược lắm, vì đó là sách lược mà. Nhưng cái đuôi HHHG đã lại lòi ra ngay: “Do đó, ngay từ bây giờ phải tập trung nỗ lực để gầy dựng tư thế và uy tín cho Việt Tân, để trong tương lai, khi áp lực đấu tranh buộc đảng cộng sản Việt Nam phải chấp nhận mở ra bối cảnh sinh hoạt đa nguyên, Việt Tân đã trong tư thế sẵn sàng để đối đầu với đảng CSVN trong trận thế đấu tranh chính trị công khai (phỏng vấn BS Trần Xuân Ninh)". Thì ra sách lược của VT là dọn đường về nước để đấu tranh chính trị. Nói trắng ra là bắt tay hòa hợp với VGCS. Sách lược này, nếu do một đảng phái quốc gia lương thiện có một quá trình tranh đấu già dặn kinh nghiệm thì có thể tin tưởng được phần nào, mặc dầu vẫn biết nó đáng nghi ngờ. Nhưng nó lại được quảng bá từ một tổ chức thảo khấu bất lương để bịp bợm thì không ai tin được. Điều hết sức phi lý là tổ chức này, những con người này không những đã không bị pháp luật trừng trị, mà trái lại nó vẫn mặc sức tung hoành và có vẻ còn có thế giá đối với chính quyền Mỹ.
Câu hỏi là tại sao? Và đây là câu trả lời: vì VT là tay sai, là công cụ. Tổ chức này từ bước đầu mới thành lập, hồi còn có tên là Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng VN, gọi tắt là Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, nó đã bị khuynh loát và thao túng bởi phó đề đốc Hoàng Cơ Minh, một con người tham tiền và bịp bợm. Từ đầu thập niên 1980 đến nay (năm 2009), về danh xưng tổ chức này đã thay đổi từ Mặt Trận thành Đảng. Về mặt sinh hoạt, nó đã biến thái qua ba giai đoạn từ một tổ chức kháng chiến bịp đến hình thức mafia chuyên gây tội ác, và hiện nay là công cụ cho các thế lực chính trị sử dụng để mưu giàn dựng ra cái gọi là hòa hợp hòa giải hầu thiết lập cho VN một thể chế dân chủ cuội sau này.
1. Giai đoạn kháng chiến bịp
Giai đoạn ngắn ngủi này là lúc ông HCM còn sống. Dán cái nhãn hiệu “bịp” vào tên tuổi của một tổ chức chống cộng giải phóng quê hương thứ thiệt là phạm đại tội. Nhưng ịn lên tên MT Hoàng cơ Minh chữ “bịp” thì đúng lắm. Báo chí gọi thế. Người dân tỵ nạn gọi thế. Không phải người viết gọi thế với ý xấu, bởi vì ông HCM dựng lên Mặt Trận để bịp thiệt. Khu chiến là khu chiến giả. Kháng chiến là kháng chiến bịp. Báo kháng chiến toàn phịa tin không có. Kháng chiến quân hơn một trăm người thì khoảng một trăm là thanh niên Miên, Lào được ông HCM thuê mướn để đóng phim. Thế nhưng ông HCM đã nhân con số lên thành 10.000 tay súng. Phịa để làm gì? Câu trả lời là lời ông Minh nói với đại tá Phạm Văn Liễu như sau: “Phải tuyên bố như vậy thì đồng bào mới cho tiền.” Theo nhiều nguồn tin khác nhau, số tiền đồng bào ủng hộ MT được ước lượng không dưới 10 triệu dollars. Số tiền lớn này ông HCM trao cả cho người em ruột của ông là ông Hoàng Cơ Định. Ông Định có gởi sang Thái Lan cho ông Minh 160.000 dollars để dùng cho kháng chiến, nhưng ông Minh gởi trả lại ông Định bảo cứ giữ lại tại Mỹ.
Ông HCM còn đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng khác nữa do người Mỹ thuê mướn là xâm nhập các nước Việt, Miên, Lào để tìm lính Mỹ mất tích bị nghi là vẫn còn sống. Vấn đề này báo chí có nói qua, nhưng vì là việc của CIA nên chẳng bao giờ tìm ra dấu vết. Chứng cứ là câu nói của BS Lê Văn Trực được cụ Phạm Ngọc Lũy ghi lai: “…việc anh Minh (HCM) đi Thái Lan có bàn tay Mỹ chi phối, trước sau rồi cũng làm tay sai.” (Phạm Ngọc Lũy: Hồi Ký Một Đời Người, tập II, trang 10).
Những chuyện về MT và về người chủ sự của nó là phó đề đốc HCM kể thì nhiều lắm. Tài liệu chất cao bằng đầu. Tất cả đi đến kết luận ông HCM là một con người mưu mô, xảo quyệt, phản bội đồng chí, tàn ác với đồng đội, thiếu tư cách lãnh đạo nên không làm được việc lớn, tham quyền và nhất là tham tiền. Do đó không thể có chuyện gọi là “giải phóng đất nước”. Tất cả được gói gọn trong một chữ “Bịp”.
2. Giai đoạn trở thành Mafia
Sau khi ông HCM chết, MT biến thành tổ chức mafia người Việt tại hải ngoại. Tổ chức này về mặt nổi do Nguyễn Kim Huờn túc Nguyễn Kim, một người rất ít được biết đến trước đó, lãnh đạo, nhưng mọi chuyện đều bí mật nằm dưới sự chỉ đạo của Hoàng Cơ Định, người em cùng cha khác mẹ với HCM. Định là người trước năm 1975 đã bị sa thải khỏi trường Cao Đẳng Hóa Học, Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Saigon vì lý do tham nhũng. Ls Hoàng Duy Hùng đã trích dẫn báo cáo của cơ quan FBI nhận định về MT như sau: MT và CS nằm vùng đã xâm nhập vào mọi lãnh vực cộng đồng, vào các nhóm du đãng, trẻ em Mỹ lai, và vị thành niên để dụ dỗ và khống chế các em gia nhập các băng đảng tội ác như làm đĩ, buôn bán ma túy và vũ khí, chuyển ngân lậu v.v. Ngoài ra MT còn bị tố cáo tội giết người như các nhà báo Đạm Phong, Lê Triết. Điều cần nhấn mạnh là ông Hoàng Duy Hùng là một luật sư tốt nghiệp và hành nghề tại Mỹ nên những tài liệu ông trưng dẫn nói rằng của cơ qua FBI phải tuyệt đối tin là đúng. Chắc chắn ông Ls Hùng không dám ăn nói bạt mạng, đùa dỡn với FBI. Lại nữa trong phiên tòa gọi là MT kiện báo chí diễn ra tại quận hạt Santa Clara ngày 12-12-1994, ông trung sĩ cảnh sát Douglas Zwemke cũng đã xác nhận rằng cảnh sát có đủ bằng chứng MT lem nhem tiền bạc, oa trữ vũ khí để uy hiếp và hăm dọa, gian lận thuế má và sổ sách.
MT bị tố cáo tất cả gồm 39 tội danh mà hầu như đều là tội đại hình. Điều không hiểu nổi là cho đến nay luật pháp nước Mỹ vẫn không điều tra và truy tố bất cứ một ai. Pháp bất vị thân. Luật pháp quốc gia có trách nhiệm phải điều tra và truy tố các kẻ phạm pháp ra tòa để buộc chúng phải đền tội. Cảnh sát nói đã có bằng chứng MT vi phạm luật. MT đông như thế, chẳng lẽ mấy chục năm qua cảnh sát không tìm ra được lấy một tên tội phạm trong đó. Chuyện như giỡn chơi, thật sự không thể nào lý giải được trừ khi chúng ta đặt nó vào cái thế của bàn cờ chính trị của VN hiện nay.
3. Giai đoạn làm công cụ
Theo lý thì MT đã phải bị giải tán và những kẻ vi phạm luật pháp đã phải bị trừng trị. Thế nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra. Thái độ mắt nhắm mắt mở của cơ quan an ninh Mỹ đã mở ra con đường biến MT thành công cụ để sử dụng. Phương pháp dùng người kiểu này rất thường thấy trong lãnh vực tình báo. Nó cũng không khác mấy chuyện công an CS dùng bọn côn đồ tội phạm để dẹp biểu tình của giáo dân.
Sau khi được tha bổng và được sử dung, MT mới bắt đầu lột xác biến thành đảng chính trị với cái tên là Việt Tân, công khai ra mắt tại Đức ngày 19-9-2004. Thực ra đảng VT đã được thành lập từ tháng 9-1982 gần đồng thời vói MT. Đảng và MT tuy hai nhưng chỉ là một. Chủ tịch đảng Đỗ Hoàng Điềm của VT hiện nay là một người trước đây ít có ai biết tiếng. Lý Thái Hùng, tổng bí thư, đuợc nhận diện là Bùi Minh Đoàn, và bị tố cáo là CS. Hoàng Cơ Định vẫn là người nắm giữ tiền bạc của đảng. Nhưng dư luận lại tin Nguyễn Xuân Nghĩa cháu tên cựu TBT đảng CSVN Nguyễn Văn Linh mới thực sự là linh hồn của đảng VT.
Chính phủ Mỹ sử dụng một đảng chính trị chủ trương chung sống hòa bình với CS, lại được lãnh đạo bởi các cán bộ CS thì cầm chắc là VGCS sẽ rất hài lòng. Luật pháp Mỹ không cho phép bất cứ một tổ chức nào ở Mỹ chủ trương đấu tranh lật đổ một chính phủ ngoại quốc bằng vũ lực mà nước Mỹ có thiết lập bang giao. MT chủ trương lật đổ nhà nước VGCS bằng vũ lực, do đó bắt buộc phải đổi thành đảng VT với chủ trương bắt tay hòa hơp với VGCS. Đó là lý do bắt buộc MT phải biến thành đảng VT để được phép hoạt động trên đất Mỹ. Vấn đề quan trọng ở đây là tại sao lại nói VT thực hiện NQ36 của VGCS. Để có câu trả lời, chúng ta cần trở về thời gian khoảng hơn mười năm về trước. Một lần sau khi ông Dennis Harter, Phó Đại Sứ Mỹ tại VN nói chuyện với cộng đồng người tỵ nạn tại Houston, Texas, hai nhà báo Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cường viết bài tường thuật trên báo Ngày Nay nhận định rằng: nếu chúng ta đừng nghe những gì CS và HK nói, mà hãy nhìn vào những gì CS và HK làm, thì qua phần đối đáp của ông Harter, người ta có thể kết luận mà ít sợ sai lầm là hiện nay HK và VN quả thật đang cùng dắt tay nhau đi dưới những tấm bảng chỉ đường của một lộ trình Diễn Biến Hòa Bình. Kể như đã rõ ràng. Mỹ và CS bắt tay tiền chế một chế độ hòa hợp đa đảng tại VN mà VT là nhóm người được chọn lựa để làm đối lập với CS. Từ đó cho tới nay VT đã rất tích cực thi hành nhiệm vụ làm công cụ của mình. Những việc VT làm báo chí đề cập đến hàng ngày, vậy xin được miễn nhắc lại. Nói một cách tổng quát thì là một đàng ở trong nước, VT cấu kết với những thành phần dân chủ cuội trương chiêu bài tranh đấu đòi Dân Chủ. Một đàng tại hải ngoại, VT dựa vào sự yểm trợ ngầm của Mỹ, thi hành NQ36 trong cộng đồng tỵ nạn để xâm nhập, lũng đoạn, và lèo lái cộng đồng đi đến quên quá khứ, xóa hận thù hầu chấp nhận sống chung với VGCS. Đã có những chỉ dấu cho thấy các nhân vật tranh đấu trong và ngoài nước liên kết thành những tập thể đối lập giả hiệu do VT điều hợp dưới sự chỉ đạo ngầm của cả Mỹ lẫn VGCS. Đó là diễn biến hòa bình mà các ký giả Trọng Kim và Nguyễn Quốc Cuờng đã nói tới.
Nên biết rằng trở ngại lớn nhất của diễn biến hòa bình là sự chống đối của người Việt tỵ nạn. VGCS coi khối người tỵ nạn là trở ngại đã đành, nhưng ngay cả chính quyền Mỹ cũng vậy. Chính quyền Mỹ sợ dư luận. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của nền dân chủ Mỹ là dư luận của quần chúng. Cả hành pháp lẫn lập pháp đều sợ dư luận, vì dư luận nói cụ thể ra là lá phiếu của cử tri. Hành pháp Mỹ dám giết tổng thống của một quốc gia, dám đem quân bắt tổng thống của nước khác đem về nhốt tại Mỹ, dám tống cổ một nước bạn thâm tình ra khỏi tòa nhà Liên Hiệp Quốc, dám xóa tên một nước có chủ quyền trên bản đồ thế giới, nhưng họ lại không dám đi ngược lại ý muốn của dân chúng Mỹ. Chính giới Mỹ sẵn sàng tạo ra dư luận để hoàn thành một mục tiêu nào đó cho mình. Phong trào phản chiến trước 1975 nếu không được thúc đẩy bới bàn tay lông lá thì khó lên cao được như đã thấy. Cho nên để thực hiện diễn biến hòa bình với VGCS, Chính phủ Mỹ trước tiên phải dẹp đi sức đấu tranh của khối người tỵ nạn. Kẻ đứng ra làm công cụ là VT. Phương pháp thông thường như đã nói trên vẫn là “Dĩ di công di”, tức là lấy tỵ nạn diệt tỵ nạn.
4. Một vấn đề ngoài lề
Bài viết đã dài. Đến đây coi như đã có thể kết thúc, chỉ còn phần kết luận. Ngưòi viết muốn nhân cơ hội đặt vấn đề với các quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đang là thành viên của đảng VT nên mới có vấn đề ngoài lề như thế này. Ý thức rằng QLVNCH trước kia và bây giờ vẫn là lưc lượng chủ lực chống cộng hữu hiệu nhất. Sự mất mát lớn lao nhất cho hàng ngũ người quốc gia yêu nước là việc một số không nhỏ quí vị quân nhân chạy theo băng đảng VT. Sự phản phúc của băng đảng VT thì đã rõ ràng, không còn gì phải nói. Vấn đề chúng tôi muốn đặt ra là với tư cách là thành viên của đảng VT, việc đấu tranh của quí vị sẽ đem lại lợi ích gì cho đất nước. Quí vị đã dâng hiến cho Tổ Quốc nửa cuộc đời thanh xuân, coi như đã trả xong nợ sông núi. Không lẽ nửa quãng đời còn lại quí vị lại quay đầu lại với Tổ Quốc. Quí vị gia nhập đảng VT chính là hành vi đối đầu với Tổ Quốc, phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy.
Trước hết, quí vị đối đầu với Tổ Quốc với ảo tưởng rằng theo VT được Mỹ ủng hộ là quí vị đấu tranh cho tự do dân chủ tại VN. Quí vị lầm rồi. Bao nhiêu chuyện VGCS đàn áp nhân dân ta ở trong nước, Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ ỏ Hànội có bao giờ có biện pháp gì cụ thể giúp đâu, hay là chỉ ẫm ờ cho qua chuyện. Nhìn về quá khứ các năm 63, 75, lúc đó dù không có chuyện, chính quyền Mỹ cũng tạo ra cho có, chuyện nhỏ họ thổi lên thành chuyện lớn. Để làm gì thì mọi người đã thấy và lịch sử đã ghi chép đầy đủ. Đấy là cách thức chính quyền Mỹ giúp đỡ người quốc gia chúng ta. Người Việt tỵ nạn, nhất là các quân nhân QLVNVH cần nhìn và hiểu thấu đáo cái THẾ chính trị này. TT George W. Bush tiếp Đỗ Hoàng Điềm tại tòa Bạch Ốc được coi là một hình thức thừa nhận (endorse) VT cho người Việt tỵ nạn nhìn thấy mà theo. Nhưng đối với người tỵ nạn, hành động của Bush chẳng qua chỉ là để tưởng thưởng VT cũng giống như một ông chủ vuốt ve con chó trung thành và biết giữ nhà. Đừng có cho chuyện đó là quan trọng. Mỹ trở lại VN, đó là vì nhu cầu của nước Mỹ. VN cần Mỹ giúp, đó là một lợi ích thiết thực. Nhưng vấn đề là quan hệ và sư hợp tác hai bên đặt trên căn bản nào. Kinh nghiệm và lịch sử dậy chúng ta rằng, nếu chúng ta mạnh, người Mỹ sẽ giúp chúng ta trong tư thế bạn bè. Còn nếu chúng ta yếu, họ sẽ giúp chúng ta trên tư thế của một ông chủ đối với đầy tớ. VT làm công cụ cho một chính quyền đã bức tử chế độ VNCH tức là họ đã đối đầu với Tổ Quốc. Tin rằng Mỹ thừa nhận đảng VT tức là Mỹ giúp người quốc gia tiêu diệt CS? Xin đừng mơ ngủ nữa. Mở mắt ra mà nhìn đi.
Thứ nữa là quí vị đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình khi quí vị chạy theo VT mà quí vị không thấy. Xin hỏi VT ca ngợi VGCS là ái quốc có phải là họ gián tiếp kết án QLVNCH phản quốc không? Câu trả lời nhất định phải là đúng. Như vậy người quân nhân QLVNCH chạy theo VT là họ đã phản bội đồng đội và phản bội chính mình rồi vậy. VT chối bỏ tư cách tỵ nạn với việc biến ngày Quốc Hận 30-4 thành ngày Tự Do cho VN. VT phỉ báng chính nghĩa quốc gia, ca tụng VGCS qua sự kiện cho tên CS Hà Dương Dực lên đài phát thanh hạ nhục QLVNCH, đề cao quân cướp VGCS. VT công nhận Hồ Chí Minh có công đối với đất nước và đảng VGCS là một thành phần dân tộc v.v. Cứ cho rằng những việc động trời đó là những sai lầm không đáng kể do đảng viên cấp dưới không ý thức đúng lập trường và đường lối của đảng. Nhưng thử hỏi khi trung ương đảng VT công khai ca tụng VGCS là ái quốc thì sao đây? Đây không phải chuyện nhỏ nhặt mà là vấn đề quan điểm, quan điểm về lòng yêu nước. Chỉ cần đặt ra một câu hỏi với VT: “thế nào là yêu nước” thì đã đủ để lột mặt nạ của VT xuống rồi. Nêu trường hợp cụ thể xem VT có cãi được không. Cách đây không lâu khi Nguyễn Hộ, một tên CS cực kỳ hung ác và khát máu chết, trung ương đảng VT tức tốc gởi đi khắp thế giới lời phân ưu với gia đình Nguyễn Hộ, ca tụng hắn là một nhà ái quốc. Nguyễn Hộ là ai thì hẳn người quốc gia ở miền Nam, nhất là vùng Saigon, Cholon không ai không biết. Hắn là kẻ giết người không run tay. Hắn công khai tuyên bố chính sách đối xử với quân, cán, chính VNCH khi hắn vào Saigon năm 1975 như sau: Nhà chúng, ta ở, vợ chúng, ta lấy, con cái chúng, ta bắt làm nô lệ, còn chúng, ta cho đi cải tạo không có ngày về. Một tên CS ác ôn như vậy mà đảng VT ca ngợi là một nhà ái quốc. Nếu Nguyễn Hộ ái quốc thì các vị tướng, tá QLVNCH như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Hồ Ngọc Cẩn v.v. là thế nào? Nhất định là phản quốc chứ gì, có đúng không? Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Hộ, hai người bắn giết nhau ngoài mặt trận vì vấn đề đất nước. Nếu Nguyễn Hộ được kể là yêu nước thì Nguyễn Khoa Nam nhất định phải là phản quốc. Đấy là logic của lý luận. Lại nữa, nếu TT Nguyễn Khoa Nam, ĐT Hồ Ngọc Cẩn v.v. là phản quốc thì cả tập thể QLVNCH cũng kể là phản quốc luôn. Đây cũng là logic của lý luận. Quí vị tướng tá, quân nhân QLVNCH đầu quân theo VT nghĩ sao đây, xin quí vị hãy lựa chọn chỗ đứng: là người “yêu nước” như tên CS ác ôn Nguyễn Hộ, hay là kẻ phản quốc như Nguyễn Khoa Nam, như Hồ Ngọc Cẩn? Nếu quí vị chọn chỗ đứng bên cạnh Nguyễn Hộ thì đích thực quí vị đã phản bội lại QLVNCH, phản bội đồng đội, và phản bội chính quí vị rồi vậy.
Kết Luận
Bài viết này chấm dứt đúng vào lúc phong trào tố giác bọn đón gió trở cờ lên cao. Người viết tự tin rằng mình làm đúng và còn có rất nhiều đồng minh. Vô hiệu hóa hay chống lại NQ36 của VGCS là vấn đề sinh tử của người VN tỵ nạn CS. Đây là trận chiến cuối cùng. Nếu chúng ta thua, về danh nghĩa, chúng ta sẽ bị VGCS coi là kiều bào của chúng sinh sống tại hải ngoại. Khó còn cơ hội để phục quốc. Còn như nếu thắng, chúng ta còn có cơ hội đấu lại ván cờ. Như trên chúng tôi đã nói, VGCS đang áp dụng phương pháp “Dĩ di công di” để chinh phục đồng bào tỵ nạn chúng ta. Để dành được thắng lợi trong trận chiến sinh tử này, trước hết và trên hết, chúng ta phải tiêu diệt hết những kẻ núp vào cái vỏ bọc tỵ nạn để đánh phá chúng ta. Đây là con đường duy nhất, không có sự lựa chọn nào khác. Đánh Việt gian, diệt VC, đuổi xâm lược là tiến trình hợp lý nhất để cứu đất nước.
Thursday, November 12, 2009
OTTAWA KỶ NIỆM 20 NĂM SỤP ĐỔ BỨC TƯỜNG BÁ LINH VÀ CÔNG BỐ VIỆC XÂY DỰNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CỘNG SẢN.
* Trần Gia Phụng *
Cali Today News -
Chiều Thứ Hai 9-11-2009, tại Government Conference Center ở thủ đô Ottawa, Văn phòng thủ tướng Canada phối hợp với nhóm Tribute to Liberty, đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh và công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN tại thủ đô nước Canada.
Số người tham dự đông hơn so với dự tính ban đầu của Ban Tổ Chức, vì vậy ngoài khoảng 200 ghế ngồi, những người tham dự phải đứng chung quanh hội trường hoặc ngồi ngoài phòng tiếp tân. Đa số các bộ trưởng trong Hội đồng chính phủ và những dân biểu Quốc hội Liêng bang đã đến tham dự. Về phía dân sự, đông đảo nhất là cộng đồng người Canadian gốc các nước Đông Âu trước đây bị cộng sản thống trị. Riêng phái đoàn người Canadian gốc Việt Nam gồm 11 người trong đó có đại diện Liên Hội người Việt Ottawa (4 thành viên), đại diện Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội Toronto (4 thành viên) và đại diện Hội Cựu Quân Nhân Ontario (3 hội viên).
Buổi lễ do thủ tướng Canada là Stephen Harper chủ tọa, bắt đầu lúc 2G.30 khi ông bộ trưởng Public Safety trong chính phủ Liên bang là ông Peter Van Loan, người điều khiển chương trình, công bố lý do buổi lễ. Bộ trưởng Peter Van Loan gốc người Estonia. Ông bà của ông bộ trưởng đã di cư sang Canada tỵ nạn cộng sản từ sau thế chiến 2.
Người khách đầu tiên được ông Peter Van Loan giới thiệu lên diễn đàn là đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức, George Witschel. Vị đại sứ nói bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp và Đức, nhắc lại sơ lược ý nghĩa lịch sử của sự kiện nầy, nhất là việc thống nhất nước Đức trong hòa bình.
Diễn giả kế tiếp là Wladyslaw Lizon, chủ tịch Polish Canadian Congress (Nghị hội người Canadian gốc Ba Lan). Ông Lizon nhắc lại những kinh nghiệm của người Ba Lan, ông cảm ơn đất nước Canada đã mở rộng đón nhận di dân và ông đặc biệt cảm ơn chính phủ Harper đã đồng ý cho xây dựng Tượng đài Tưởng niện Nạn nhân Cộng sản tại thủ đô Ottawa.
Diễn giả chính của buổi lễ là thủ tướng Stephen Harper Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ ngày 9-11-1989, đã ảnh hưởng chẳng những Âu Châu mà toàn thế giới. Thủ tướng Harper đã long trọng công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN trước sự vỗ tay hoan hô của cử tọa. Tưởng cũng nên nhắc lại, trước đây, tại Hà Nội, Stephen thủ tướng Harper đã nói một câu hết sức nổi tiếng với nhà nước cộng sản Việt Nam, đại ý là chính phủ Canada không dùng nhân quyền để đổi lấy đồng dollar.
Chung quy, các diễn giả nói trên đều xoay quanh lịch sử, ý nghĩa việc bức tường Bá Linh sụp đổ mà báo chí đã viết đến. Lời thủ tướng Stephen Harper công bố dự án xây dựng tượng đài nạn nhân độc tài cộng sản được bà Alide Forstmani, gốc người Latvia, chủ tịch Hội đồng Quản Trị của Tribute Liberty trình bày chi tiết hơn khi bà lên diễn đàn, phát biểu ý kiến.
Bà nhắc lại việc hàng trăm triệu người đã chết vì ý thức hệ cộng sản, hàng triệu công dân Canada gốc là nạn nhân cộng sản độc tài hay thuộc những gia đình nạn nhân cộng sản độc tài, trong đó có một số người có mặt hôm nay trong hội trường nầy. Bà nói việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản không phải chỉ để tưởng nhớ những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độc độc tài cộng sản. Bà cảm ơn chính phủ Canada đã chấp thuận dự án xây cất tượng đài tại thủ đô Ottawa.
Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, kết thúc khoảng sau 4 giờ chiều cùng ngày sau khi toàn thể những người tham dự cùng đứng lên làm lễ chào quốc kỳ Canada. Đặc biệt sau buổi lễ, thủ tướng Stephen Harper đã mời tất cả những người trong hội trường ở lại. Thủ tướng ân cần vui vẻ chào hỏi và chụp hình chung với một số đại diện cộng đồng và quan khách tham dự.
Ở đây, tưởng cũng xin thêm Tribute to Liberty là một tổ chức thiện nguyện, nhằm phục vụ những người yêu chuộng tự do ở Canada và trên thế giới. Ban điều hành Tribute to Liberty gồm có một Hội đồng Quản trị và một Hội đồng Cố vấn. Hội đồng Quản trị hiện nay gồm bốn người Canadian gốc các nước Estonia, Ukraine, Latvia và Việt Nam, gia nhập với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện sắc tộc hay cộng đồng. Hội đồng cố vấn gồm đại diện của 17 cộng đồng các sắc dân Đông Âu, vùng Baltic, Nam Hàn, Trung Quốc và Cuba.
Ngoài ra, Hội đồng Quản trị Tribute to Liberty đang xúc tiến thành lập một Board of Patrons gồm những nhà đấu tranh dân chủ, những nhân vật uy tín được quốc tế biết đến trong những cộng đồng thuộc các quốc gia đã thoát ách cộng sản cai trị hay đang bị cộng sản cai trị.
Hiện nay, tổ chức Tribute to Liberty đang cố gắng thực hiện dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN. Dự án đã được cơ quan National Capital Commission chấp thuận cho đặt tượng đài ngay tại thủ đô Ottawa. Địa điểm chính xác sẽ được thảo luận và quyết định sau.
Ban điều hành Tribute to Liberty đang còn kiện toàn tổ chức, tìm kiếm vùng đất tại thủ đô Ottawa để xây dựng tượng đài, và nhất là đang kiếm cách gây quỹ để đài thọ phí tổn. Dự án xây dựng tượng đài dự tính sẽ cần 1,5 triệu Gia kim. Tổ chức Tribute to Liberty kêu gọi toàn dân Canada, đặc biệt những người thuộc gia đình tỵ nạn cộng sản, dù ít dù nhiều, hãy tiếp tay với ban Xây dựng Tượng đài để có thể hoàn tất công trình thật ý nghĩa nầy.
Để thấy rõ tầm ý nghĩa lớn lao của của công trình xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, chúng ta cần chú ý rằng tại Canada, ngoài những thổ dân bản địa Canada, đại đa số dân cư Canada đều là di dân đến từ bốn phương trời. Những đợt di dân đầu tiên đến từ Âu Châu vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những đợt di dân từ giữa thế kỷ 20, đến từ các nước Đông Âu và từ Á Châu, có cùng một mẫu số chung, đều là những nạn nhân độc tài cộng sản, trong đó, đợt cuối cùng là những thuyền nhân (boat people) Việt Nam.
Các chế độ độc tài cộng sản trên thế giới đều có những nét giống nhau, mà Quốc hội Âu Châu họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, một thành phố miền Tây bắc nước Pháp, đã ghi nhận như sau:
“Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” (điều 2) (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)
Theo số liệu trong sách Le livre noir du communisme : crimes, terreur et répression, do Stéphane Courtois chủ biên, Edition Robert Laffont, S.A. Paris 1997, thì số nạn nhân của các chế độ cộng sản các nước trên thế giới có thể ước lượng như sau:
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 65 triệu
Liên Xô: 20 triệu
Cambodia: 2 triệu
Bắc Triều Tiên: 1,5 triệu
Việt Nam: 1 triệu
Đông Âu: 1 triệu
Afghanistan: 1,5 triệu
Phi Châu: 1,7 tri ệu
Nam Mỹ: 150,000
Đây chỉ là số liệu những người tử vong vì bàn tay sắt máu của cộng sản . Chắc chắn số nạn nhân bị bạo hành dưới chế độ chuyên chính độc tài toàn trị cộng sản trên thế giới lên đến hàng tỷ người. Vì sự vi phạm nhân quyền nặng nề của các chế độ cộng sản, nên dân chúng các nước bị cộng sản cai trị đã kiếm tất cả các cách bỏ nước ra đi tìm tự do, đến nỗi có một nhạc sĩ Việt Nam, ông Trần Văn Trạch, đã nói rằng “cây cột đèn cũng muốn ra đi ”.
Hiện nay, dân số Canada khoảng trên 32,000,000 người, trong đó có khoảng 8,000,000 người có nguồn gốc từ các nước bị cộng sản cai trị, nghĩa là 25% hay một phần tư dân số Canada, là những người tỵ nạn hay con cháu những người tỵ nạn cộng sản.
Nhìn vào bảng thống kê của Le livre noir du communisme: crimes, terreur et répression do Stéphane Courtois chủ biên, hai điều dễ nhận ra là: 1) Trong số các nước trên, còn lại 4 nước đang bị cộng sản thống trị là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba (trong nhóm Nam Mỹ). 2) Tất cả các sắc dân các nước trong bảng thống kê đều có mặt tại Canada.
Với một tỷ lệ dân số lớn lao thuộc thành phần tỵ nạn cộng sản hay con cháu những ngưòi tỵ nạn cộng sản tại Canada, việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Độc tài Cộng sản là một việc làm rất ý nghĩa đúng như bà Alide Forstmani đã phát biểu tại Ottawa nhân Lễ kỷ niệm 20 sụp đổ bức tường Bá Linh ngày 09-11-2009 là không phải chỉ để tưởng niệm những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độ độc tài cộng sản.
Xin mời quý đồng hương tìm hiểu thêm về công việc xây dựng TƯỢNG ĐÀI NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN qua web site: www.tributetoliberty.ca, và e-mail liên lạc với tổ chức Tribute to Liberty theo địa chỉ sau đây: info@tributetoliberty.ca.
(Toronto, 10-11-2009)
* Trần Gia Phụng *
Cali Today News -
Chiều Thứ Hai 9-11-2009, tại Government Conference Center ở thủ đô Ottawa, Văn phòng thủ tướng Canada phối hợp với nhóm Tribute to Liberty, đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm sụp đổ bức tường Bá Linh và công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN tại thủ đô nước Canada.
Số người tham dự đông hơn so với dự tính ban đầu của Ban Tổ Chức, vì vậy ngoài khoảng 200 ghế ngồi, những người tham dự phải đứng chung quanh hội trường hoặc ngồi ngoài phòng tiếp tân. Đa số các bộ trưởng trong Hội đồng chính phủ và những dân biểu Quốc hội Liêng bang đã đến tham dự. Về phía dân sự, đông đảo nhất là cộng đồng người Canadian gốc các nước Đông Âu trước đây bị cộng sản thống trị. Riêng phái đoàn người Canadian gốc Việt Nam gồm 11 người trong đó có đại diện Liên Hội người Việt Ottawa (4 thành viên), đại diện Uỷ Ban Yểm Trợ Phong Trào Dân Chủ Quốc Nội Toronto (4 thành viên) và đại diện Hội Cựu Quân Nhân Ontario (3 hội viên).
Buổi lễ do thủ tướng Canada là Stephen Harper chủ tọa, bắt đầu lúc 2G.30 khi ông bộ trưởng Public Safety trong chính phủ Liên bang là ông Peter Van Loan, người điều khiển chương trình, công bố lý do buổi lễ. Bộ trưởng Peter Van Loan gốc người Estonia. Ông bà của ông bộ trưởng đã di cư sang Canada tỵ nạn cộng sản từ sau thế chiến 2.
Người khách đầu tiên được ông Peter Van Loan giới thiệu lên diễn đàn là đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức, George Witschel. Vị đại sứ nói bằng ba ngôn ngữ Anh, Pháp và Đức, nhắc lại sơ lược ý nghĩa lịch sử của sự kiện nầy, nhất là việc thống nhất nước Đức trong hòa bình.
Diễn giả kế tiếp là Wladyslaw Lizon, chủ tịch Polish Canadian Congress (Nghị hội người Canadian gốc Ba Lan). Ông Lizon nhắc lại những kinh nghiệm của người Ba Lan, ông cảm ơn đất nước Canada đã mở rộng đón nhận di dân và ông đặc biệt cảm ơn chính phủ Harper đã đồng ý cho xây dựng Tượng đài Tưởng niện Nạn nhân Cộng sản tại thủ đô Ottawa.
Diễn giả chính của buổi lễ là thủ tướng Stephen Harper Ông nhấn mạnh đến sự quan trọng của việc bức tường Bá Linh bị sụp đổ ngày 9-11-1989, đã ảnh hưởng chẳng những Âu Châu mà toàn thế giới. Thủ tướng Harper đã long trọng công bố dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN trước sự vỗ tay hoan hô của cử tọa. Tưởng cũng nên nhắc lại, trước đây, tại Hà Nội, Stephen thủ tướng Harper đã nói một câu hết sức nổi tiếng với nhà nước cộng sản Việt Nam, đại ý là chính phủ Canada không dùng nhân quyền để đổi lấy đồng dollar.
Chung quy, các diễn giả nói trên đều xoay quanh lịch sử, ý nghĩa việc bức tường Bá Linh sụp đổ mà báo chí đã viết đến. Lời thủ tướng Stephen Harper công bố dự án xây dựng tượng đài nạn nhân độc tài cộng sản được bà Alide Forstmani, gốc người Latvia, chủ tịch Hội đồng Quản Trị của Tribute Liberty trình bày chi tiết hơn khi bà lên diễn đàn, phát biểu ý kiến.
Bà nhắc lại việc hàng trăm triệu người đã chết vì ý thức hệ cộng sản, hàng triệu công dân Canada gốc là nạn nhân cộng sản độc tài hay thuộc những gia đình nạn nhân cộng sản độc tài, trong đó có một số người có mặt hôm nay trong hội trường nầy. Bà nói việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Cộng sản không phải chỉ để tưởng nhớ những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độc độc tài cộng sản. Bà cảm ơn chính phủ Canada đã chấp thuận dự án xây cất tượng đài tại thủ đô Ottawa.
Buổi lễ diễn ra rất trang nghiêm, kết thúc khoảng sau 4 giờ chiều cùng ngày sau khi toàn thể những người tham dự cùng đứng lên làm lễ chào quốc kỳ Canada. Đặc biệt sau buổi lễ, thủ tướng Stephen Harper đã mời tất cả những người trong hội trường ở lại. Thủ tướng ân cần vui vẻ chào hỏi và chụp hình chung với một số đại diện cộng đồng và quan khách tham dự.
Ở đây, tưởng cũng xin thêm Tribute to Liberty là một tổ chức thiện nguyện, nhằm phục vụ những người yêu chuộng tự do ở Canada và trên thế giới. Ban điều hành Tribute to Liberty gồm có một Hội đồng Quản trị và một Hội đồng Cố vấn. Hội đồng Quản trị hiện nay gồm bốn người Canadian gốc các nước Estonia, Ukraine, Latvia và Việt Nam, gia nhập với tư cách cá nhân chứ không phải là đại diện sắc tộc hay cộng đồng. Hội đồng cố vấn gồm đại diện của 17 cộng đồng các sắc dân Đông Âu, vùng Baltic, Nam Hàn, Trung Quốc và Cuba.
Ngoài ra, Hội đồng Quản trị Tribute to Liberty đang xúc tiến thành lập một Board of Patrons gồm những nhà đấu tranh dân chủ, những nhân vật uy tín được quốc tế biết đến trong những cộng đồng thuộc các quốc gia đã thoát ách cộng sản cai trị hay đang bị cộng sản cai trị.
Hiện nay, tổ chức Tribute to Liberty đang cố gắng thực hiện dự án xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN. Dự án đã được cơ quan National Capital Commission chấp thuận cho đặt tượng đài ngay tại thủ đô Ottawa. Địa điểm chính xác sẽ được thảo luận và quyết định sau.
Ban điều hành Tribute to Liberty đang còn kiện toàn tổ chức, tìm kiếm vùng đất tại thủ đô Ottawa để xây dựng tượng đài, và nhất là đang kiếm cách gây quỹ để đài thọ phí tổn. Dự án xây dựng tượng đài dự tính sẽ cần 1,5 triệu Gia kim. Tổ chức Tribute to Liberty kêu gọi toàn dân Canada, đặc biệt những người thuộc gia đình tỵ nạn cộng sản, dù ít dù nhiều, hãy tiếp tay với ban Xây dựng Tượng đài để có thể hoàn tất công trình thật ý nghĩa nầy.
Để thấy rõ tầm ý nghĩa lớn lao của của công trình xây dựng TƯỢNG ĐÀI TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN, chúng ta cần chú ý rằng tại Canada, ngoài những thổ dân bản địa Canada, đại đa số dân cư Canada đều là di dân đến từ bốn phương trời. Những đợt di dân đầu tiên đến từ Âu Châu vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Những đợt di dân từ giữa thế kỷ 20, đến từ các nước Đông Âu và từ Á Châu, có cùng một mẫu số chung, đều là những nạn nhân độc tài cộng sản, trong đó, đợt cuối cùng là những thuyền nhân (boat people) Việt Nam.
Các chế độ độc tài cộng sản trên thế giới đều có những nét giống nhau, mà Quốc hội Âu Châu họp ngày 25-1-2006 tại Strasbourg, một thành phố miền Tây bắc nước Pháp, đã ghi nhận như sau:
“Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sự vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị.” (điều 2) (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)
Theo số liệu trong sách Le livre noir du communisme : crimes, terreur et répression, do Stéphane Courtois chủ biên, Edition Robert Laffont, S.A. Paris 1997, thì số nạn nhân của các chế độ cộng sản các nước trên thế giới có thể ước lượng như sau:
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa: 65 triệu
Liên Xô: 20 triệu
Cambodia: 2 triệu
Bắc Triều Tiên: 1,5 triệu
Việt Nam: 1 triệu
Đông Âu: 1 triệu
Afghanistan: 1,5 triệu
Phi Châu: 1,7 tri ệu
Nam Mỹ: 150,000
Đây chỉ là số liệu những người tử vong vì bàn tay sắt máu của cộng sản . Chắc chắn số nạn nhân bị bạo hành dưới chế độ chuyên chính độc tài toàn trị cộng sản trên thế giới lên đến hàng tỷ người. Vì sự vi phạm nhân quyền nặng nề của các chế độ cộng sản, nên dân chúng các nước bị cộng sản cai trị đã kiếm tất cả các cách bỏ nước ra đi tìm tự do, đến nỗi có một nhạc sĩ Việt Nam, ông Trần Văn Trạch, đã nói rằng “cây cột đèn cũng muốn ra đi ”.
Hiện nay, dân số Canada khoảng trên 32,000,000 người, trong đó có khoảng 8,000,000 người có nguồn gốc từ các nước bị cộng sản cai trị, nghĩa là 25% hay một phần tư dân số Canada, là những người tỵ nạn hay con cháu những người tỵ nạn cộng sản.
Nhìn vào bảng thống kê của Le livre noir du communisme: crimes, terreur et répression do Stéphane Courtois chủ biên, hai điều dễ nhận ra là: 1) Trong số các nước trên, còn lại 4 nước đang bị cộng sản thống trị là Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba (trong nhóm Nam Mỹ). 2) Tất cả các sắc dân các nước trong bảng thống kê đều có mặt tại Canada.
Với một tỷ lệ dân số lớn lao thuộc thành phần tỵ nạn cộng sản hay con cháu những ngưòi tỵ nạn cộng sản tại Canada, việc xây dựng Tượng đài Tưởng niệm Nạn nhân Độc tài Cộng sản là một việc làm rất ý nghĩa đúng như bà Alide Forstmani đã phát biểu tại Ottawa nhân Lễ kỷ niệm 20 sụp đổ bức tường Bá Linh ngày 09-11-2009 là không phải chỉ để tưởng niệm những người đã chết dưới chế độ cộng sản, mà còn để giáo dục, nhắc nhở các thế hệ kế tiếp về những tội ác của chế độ độc tài cộng sản.
Xin mời quý đồng hương tìm hiểu thêm về công việc xây dựng TƯỢNG ĐÀI NẠN NHÂN ĐỘC TÀI CỘNG SẢN qua web site: www.tributetoliberty.ca, và e-mail liên lạc với tổ chức Tribute to Liberty theo địa chỉ sau đây: info@tributetoliberty.ca.
(Toronto, 10-11-2009)
Wednesday, November 11, 2009
NHỮNG KẺ PHẢN BỘI TRONG GIỚI TRUYỀN THÔNG .
Đoàn Trọng Hiếu
Ba chữ KẺ PHẢN BỘI chúng ta thường nghe rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày, có khi là một anh chàng phản bội vợ hay một cô nàng phản bội chồng , hành động phản bội này thường chỉ gây tác hại trong phạm vi gia đình của chính bản thân họ, một kẻ phản bội bạn bè cũng chỉ làm cho bạn bè họ khinh chê xa lánh.Những hành động phản bội trên thường không gây ra những tác hại cho xã hội hoặc nếu có thì cũng trong một phạm vi nhỏ hẹp.
Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là cộng đồng và đặc biệt là Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng đã có những kẻ phản bội. Một ông chủ của cả một hệ thống bán đồ ăn nhanh làm giàu bằng sự mua bán với đồng hương nhưng sau đó lại thập thò đi lại với việt cộng , hành động này cũng chỉ làm cho đồng hương tiếc là đã mua hàng của hắn khiến hắn giàu lên. Một kẻ phản bội Nguyễn Cao Kỳ muối mặt đến với việt cộng bằng hai cái đầu gối cũng chỉ làm cho cộng đồng cảm thấy xấu hổ vì đã có một tên vô lại đứng trong hàng ngũ lãnh đạo miền Nam trước kia.
Tác hại khi người làm truyền thông phản bội.
Nhưng khi sự phản bội của giới truyền thông thì hậu quả của nó không lường được, vì ngày hôm nay truyền thông là vũ khí sắc bén để tấn công vào hang ổ của bọn việt cộng, đồng thời là phương tiện hữu hiệu nhất để củng cố , đoàn kết khối người Việt Quốc Gia,là một phương tiện thông tin nhanh nhất để phá xập bức tường bưng bít do bọn việt cộng dựng lên để ngăn cách người dân trong nước với thế giới bên ngoài.Hiểu rõ điều này hơn ai hết , nên việt cộng lâu nay vẫn cố gắng len lỏi vào những kẽ hở của nghành truyền thông để tạo sự chia rẽ trong cộng đồng, mua chuộc những tên hám danh hám lợi tấn công bôi bẩn những người Quốc Gia chân chính đang dấn thân cho công cuộc tranh đấu chung nhằm giải thể chế độ việt cộng buôn dân bán nước.
Hành động của ông chủ một tờ báo lớn (đã từng là một công chức bậc trung thời VNCH) ở California đã lén tiếp xúc với tên Nguyễn tấn Dũng khi tên này còn là phó thủ tướng ,cũng như đăng lên những bài viết những hình ảnh xúc phạm đến lá Cờ Vàng linh hồn của người Việt Quốc Gia đã gây xôn xao trong cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt vùng Cali , những cuộc biểu tình liên tục vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay, tuy nhiên cách thức phản đối cũng đã gây phân hóa trong cộng đồng, nhưng dù sao đây cũng chỉ là một tờ báo do một cá nhân hoặc gia đình làm chủ xuất bản báo bằng tiền túi của mình, hành động phản bội của bọn này cũng chỉ làm cho cộng đồng phỉ nhổ vào mặt chúng và tẩy chay không mua báo nữa, nhưng không làm suy sụp tiềm năng chống cộng của người Việt hải ngoại .Cũng như hành động của một người trẻ Hồ Văn Xuân Nhi của tờ Việt Weekly hoặc của anh họa sĩ họ Đoàn cũng chỉ làm cho cộng đồng nổi giận , nhưng đồng thời cũng là dịp để thế hệ cha anh uốn nắn lại những suy nghĩ lệch lạc của những thế hệ sau do cao ngạo tự mãn, cho rằng mình đươc hấp thụ một nền giáo dục tiên tiến hơn hẳn cha anh ,nên đã xem thường kinh nghiệm máu xương mà ông cha đã phải trả giá quá đắt đối với bọn việt cộng.
Gần đây nhất, một đài phát thanh ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có làn sóng phát thanh rộng rãi trên nhiều tiểu bang và sang tận Âu Châu, số lượng thính giả lên đến vài trăm ngàn người,tức là có thể chiếm đến khoảng từ 40% đến 50% số người Việt Quốc Gia chống cộng, nhiều cộng tác viên đã hợp tác hoàn toàn vô vị lợi, sự ủng hộ tài chánh từ phía thính giả mỗi năm lên đến hàng trăm ngàn đồng, đài đã trở thành cái gai đối với bọn cầm quyền việt cộng . Bằng một âm mưu thâm độc không những nhằm triệt hạ cho bằng được đài phát thanh này mà còn quan trọng hơn là làm sụp đổ tinh thần chống cộng của hàng trăm ngàn thính giả , một kế hoạch tinh vi đã được giao cho tên đệ tam tham tán đặc trách người Việt ở nước ngoài thuộc tòa đại sứ vc tại Hoa Thịnh Đốn thi hành.
Trong khi đó thì không hiểu vì vô tình hay hữu ý mà ông TNS Jim Webb, người mà năm 2003 với tư cách của một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam đã từng lên án đám truyền thông thân cộng, đám chính trị gia chủ bại trong thời chiến tranh Việt Nam là “chăn gối với kẻ thù”, lên án ứng cử viên tổng thống năm 1972 Mc Govern là “đi với Hà Nội bằng hai đầu gối”. Thì năm 2007 sau khi đắc cử TNS liên bang ông lại kêu gọi người Việt hải ngoại và nhất là giới trẻ hãy tiếp xúc với việt cộng , đặc biệt là với tòa đại sứ việt cộng tại Hoa Thịnh Đốn để làm giảm bớt sự gay gắt, điều này đi ngược lại lập trường đấu tranh chung của người Việt Quốc Gia , không phải ông đã quên bài học”chăn gối với kẻ thù”nhưng vì ông là TNS Mỹ ông phải nói sao cho có lợi cho tư bản Mỹ,và dĩ nhiên là có lợi cho việt cộng , vậy mà ông tổng giám đốc đài tuyên bố là đài VNHN đang “invest” vào ông Jim Webb, ông “invest”để làm lợi cho việt cộng hay sao ? hay để có một cái văn phòng liên lạc của đài VNHN tại Việt Nam như lời ông nói? Ông đúng là kẻ mộng du giữa ban ngày.
Vậy mà khi nghe lời “xúi trẻ ăn cứt gà” của ông Jim Webb thì cũng đã có vài tên ngu xuẩn nhanh chân , cho đó là chủ trương của Mỹ nên đã hớn hở đến tòa đại sứ vc chào cờ đầu năm, riêng các ông bà giám đốc của đài VNHN thì đã có chủ đích riêng , vì tư lợi cá nhân mà vượt qua lằn ranh Quốc cộng , tổ chức tiệc tùng hết sinh nhật tại nhà hàng lại đến tất niên tại tư gia ( cũng cần nên nhớ là bọn việt cộng đi đâu cũng đi hai người trở nên và chỉ đến những nơi là cơ sở của chúng hoặc cảm tình viên tịn tưởng ) tiệc nào cũng (qua bạn bè?) mời mấy tên cán bộ gộc đến cho chúng ăn vài miếng rồi “giáo dục” chúng, “chiêu hồi” chúng, ôm chúng vào lòng như ôm đứa con hoang đàng trở về, bởi theo lời các ông bà giám đốc thì bọn việt cộng này còn bé dại dột nào có biết chi ( ngụy biện).
Thưa các ông bà giám đốc, mục đích của các ông bà cao cả như thế mà tại sao lại cứ lẩn tránh không dám đối chất công khai với kẻ tố giác là ông Hồng Phúc, các ông bà lại còn kéo bè kéo đảng lợi dụng có làn sóng để bịt miệng trấn áp những người dám lên tiếng tố giác phản đối mình, các ông bà có thể bịt miệng chúng tôi được nhưng không thể bịt miệng bọn việt cộng đươc , chúng có thể sẽ giăng thêm cái bẫy thứ hai cho triệu hồi về nước và hạ tầng công tác tên đệ tam tham tán với lý do đã chao đảo lập trường bị kẻ địch dụ dỗ để tăng thêm uy tín cho các ông bà giám đốc , lúc đó sẽ có nhiều tổ chức hội đoàn cũng như cá nhân sẽ lên tiếng ủng hộ hành động của quý vị , thế là thêm những con cá lớn như ban đại diện TCCĐ Washington v..v đút đầu vào lưới, mẻ lưới sẽ được kéo lên vào thời điểm cần thiết, tin tức hình ảnh các ông bà “chăn gối với kẻ thù” sẽ được truyền trên đài vtv4, tổn thất đến với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia là điều không tránh khỏi. Thử tưởng tượng khi mẻ lưới đã đầy chúng sẽ kéo lên vào lúc một tên đại gộc nào đó sang gặp TT Mỹ, quý vị trong các TCCĐ , hội đoàn , liên hội đã chui đầu vào lưới có dám kêu gọi đồng bào đi biểu tình không ? và có ai nghe lời kêu gọi của quý vị không?
Nhưng may mắn thay lời tố giác của ông Hồng Phúc đã khiến cho hàng ngàn thính giả hiểu biết thấy được bản chất thật được che dấu dưới bộ mặt chống cộng giả hình của quý ông bà , nên tránh đươc sự sụp đổ niềm tin, vì thế cho dù lời tố giác của ông Hồng Phúc phát xuất từ động cơ xấu như các ông bà vẫn rêu rao thì lời tố giác ấy vẫn có giá trị và được trân quý .
Nói tóm lại, các ông bà là những KẺ PHẢN BỘI trong giới truyền thông, đang hủy hoại tinh thần chống cộng của đồng bào , lường gạt TÌNH (niềm tin, yêu) TIỀN(kêu gào ủng hộ) của đồng bào, tàn nhẫn hơn lại từ những cụ già sống nhờ tiền trợ cấp xã hội chắt chiu dành dụm gởi gấm đến quí vị với tất cả niềm tin yêu để chỉ mong sớm có ngày về được chết trên quê hương .Hành động này cần phải bị lên án và dập tắt .
"Đường về quê lại thêm xa lắc lê thê vì đã trót nghe theo lời u mê".
Viết từ vùng sa mạc New Mexico ngày 8 /11/2009
Đoàn Trọng Hiếu
Đoàn Trọng Hiếu
Ba chữ KẺ PHẢN BỘI chúng ta thường nghe rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày, có khi là một anh chàng phản bội vợ hay một cô nàng phản bội chồng , hành động phản bội này thường chỉ gây tác hại trong phạm vi gia đình của chính bản thân họ, một kẻ phản bội bạn bè cũng chỉ làm cho bạn bè họ khinh chê xa lánh.Những hành động phản bội trên thường không gây ra những tác hại cho xã hội hoặc nếu có thì cũng trong một phạm vi nhỏ hẹp.
Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là cộng đồng và đặc biệt là Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại cũng đã có những kẻ phản bội. Một ông chủ của cả một hệ thống bán đồ ăn nhanh làm giàu bằng sự mua bán với đồng hương nhưng sau đó lại thập thò đi lại với việt cộng , hành động này cũng chỉ làm cho đồng hương tiếc là đã mua hàng của hắn khiến hắn giàu lên. Một kẻ phản bội Nguyễn Cao Kỳ muối mặt đến với việt cộng bằng hai cái đầu gối cũng chỉ làm cho cộng đồng cảm thấy xấu hổ vì đã có một tên vô lại đứng trong hàng ngũ lãnh đạo miền Nam trước kia.
Tác hại khi người làm truyền thông phản bội.
Nhưng khi sự phản bội của giới truyền thông thì hậu quả của nó không lường được, vì ngày hôm nay truyền thông là vũ khí sắc bén để tấn công vào hang ổ của bọn việt cộng, đồng thời là phương tiện hữu hiệu nhất để củng cố , đoàn kết khối người Việt Quốc Gia,là một phương tiện thông tin nhanh nhất để phá xập bức tường bưng bít do bọn việt cộng dựng lên để ngăn cách người dân trong nước với thế giới bên ngoài.Hiểu rõ điều này hơn ai hết , nên việt cộng lâu nay vẫn cố gắng len lỏi vào những kẽ hở của nghành truyền thông để tạo sự chia rẽ trong cộng đồng, mua chuộc những tên hám danh hám lợi tấn công bôi bẩn những người Quốc Gia chân chính đang dấn thân cho công cuộc tranh đấu chung nhằm giải thể chế độ việt cộng buôn dân bán nước.
Hành động của ông chủ một tờ báo lớn (đã từng là một công chức bậc trung thời VNCH) ở California đã lén tiếp xúc với tên Nguyễn tấn Dũng khi tên này còn là phó thủ tướng ,cũng như đăng lên những bài viết những hình ảnh xúc phạm đến lá Cờ Vàng linh hồn của người Việt Quốc Gia đã gây xôn xao trong cộng đồng người Việt hải ngoại, đặc biệt vùng Cali , những cuộc biểu tình liên tục vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay, tuy nhiên cách thức phản đối cũng đã gây phân hóa trong cộng đồng, nhưng dù sao đây cũng chỉ là một tờ báo do một cá nhân hoặc gia đình làm chủ xuất bản báo bằng tiền túi của mình, hành động phản bội của bọn này cũng chỉ làm cho cộng đồng phỉ nhổ vào mặt chúng và tẩy chay không mua báo nữa, nhưng không làm suy sụp tiềm năng chống cộng của người Việt hải ngoại .Cũng như hành động của một người trẻ Hồ Văn Xuân Nhi của tờ Việt Weekly hoặc của anh họa sĩ họ Đoàn cũng chỉ làm cho cộng đồng nổi giận , nhưng đồng thời cũng là dịp để thế hệ cha anh uốn nắn lại những suy nghĩ lệch lạc của những thế hệ sau do cao ngạo tự mãn, cho rằng mình đươc hấp thụ một nền giáo dục tiên tiến hơn hẳn cha anh ,nên đã xem thường kinh nghiệm máu xương mà ông cha đã phải trả giá quá đắt đối với bọn việt cộng.
Gần đây nhất, một đài phát thanh ở vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, có làn sóng phát thanh rộng rãi trên nhiều tiểu bang và sang tận Âu Châu, số lượng thính giả lên đến vài trăm ngàn người,tức là có thể chiếm đến khoảng từ 40% đến 50% số người Việt Quốc Gia chống cộng, nhiều cộng tác viên đã hợp tác hoàn toàn vô vị lợi, sự ủng hộ tài chánh từ phía thính giả mỗi năm lên đến hàng trăm ngàn đồng, đài đã trở thành cái gai đối với bọn cầm quyền việt cộng . Bằng một âm mưu thâm độc không những nhằm triệt hạ cho bằng được đài phát thanh này mà còn quan trọng hơn là làm sụp đổ tinh thần chống cộng của hàng trăm ngàn thính giả , một kế hoạch tinh vi đã được giao cho tên đệ tam tham tán đặc trách người Việt ở nước ngoài thuộc tòa đại sứ vc tại Hoa Thịnh Đốn thi hành.
Trong khi đó thì không hiểu vì vô tình hay hữu ý mà ông TNS Jim Webb, người mà năm 2003 với tư cách của một cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam đã từng lên án đám truyền thông thân cộng, đám chính trị gia chủ bại trong thời chiến tranh Việt Nam là “chăn gối với kẻ thù”, lên án ứng cử viên tổng thống năm 1972 Mc Govern là “đi với Hà Nội bằng hai đầu gối”. Thì năm 2007 sau khi đắc cử TNS liên bang ông lại kêu gọi người Việt hải ngoại và nhất là giới trẻ hãy tiếp xúc với việt cộng , đặc biệt là với tòa đại sứ việt cộng tại Hoa Thịnh Đốn để làm giảm bớt sự gay gắt, điều này đi ngược lại lập trường đấu tranh chung của người Việt Quốc Gia , không phải ông đã quên bài học”chăn gối với kẻ thù”nhưng vì ông là TNS Mỹ ông phải nói sao cho có lợi cho tư bản Mỹ,và dĩ nhiên là có lợi cho việt cộng , vậy mà ông tổng giám đốc đài tuyên bố là đài VNHN đang “invest” vào ông Jim Webb, ông “invest”để làm lợi cho việt cộng hay sao ? hay để có một cái văn phòng liên lạc của đài VNHN tại Việt Nam như lời ông nói? Ông đúng là kẻ mộng du giữa ban ngày.
Vậy mà khi nghe lời “xúi trẻ ăn cứt gà” của ông Jim Webb thì cũng đã có vài tên ngu xuẩn nhanh chân , cho đó là chủ trương của Mỹ nên đã hớn hở đến tòa đại sứ vc chào cờ đầu năm, riêng các ông bà giám đốc của đài VNHN thì đã có chủ đích riêng , vì tư lợi cá nhân mà vượt qua lằn ranh Quốc cộng , tổ chức tiệc tùng hết sinh nhật tại nhà hàng lại đến tất niên tại tư gia ( cũng cần nên nhớ là bọn việt cộng đi đâu cũng đi hai người trở nên và chỉ đến những nơi là cơ sở của chúng hoặc cảm tình viên tịn tưởng ) tiệc nào cũng (qua bạn bè?) mời mấy tên cán bộ gộc đến cho chúng ăn vài miếng rồi “giáo dục” chúng, “chiêu hồi” chúng, ôm chúng vào lòng như ôm đứa con hoang đàng trở về, bởi theo lời các ông bà giám đốc thì bọn việt cộng này còn bé dại dột nào có biết chi ( ngụy biện).
Thưa các ông bà giám đốc, mục đích của các ông bà cao cả như thế mà tại sao lại cứ lẩn tránh không dám đối chất công khai với kẻ tố giác là ông Hồng Phúc, các ông bà lại còn kéo bè kéo đảng lợi dụng có làn sóng để bịt miệng trấn áp những người dám lên tiếng tố giác phản đối mình, các ông bà có thể bịt miệng chúng tôi được nhưng không thể bịt miệng bọn việt cộng đươc , chúng có thể sẽ giăng thêm cái bẫy thứ hai cho triệu hồi về nước và hạ tầng công tác tên đệ tam tham tán với lý do đã chao đảo lập trường bị kẻ địch dụ dỗ để tăng thêm uy tín cho các ông bà giám đốc , lúc đó sẽ có nhiều tổ chức hội đoàn cũng như cá nhân sẽ lên tiếng ủng hộ hành động của quý vị , thế là thêm những con cá lớn như ban đại diện TCCĐ Washington v..v đút đầu vào lưới, mẻ lưới sẽ được kéo lên vào thời điểm cần thiết, tin tức hình ảnh các ông bà “chăn gối với kẻ thù” sẽ được truyền trên đài vtv4, tổn thất đến với Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia là điều không tránh khỏi. Thử tưởng tượng khi mẻ lưới đã đầy chúng sẽ kéo lên vào lúc một tên đại gộc nào đó sang gặp TT Mỹ, quý vị trong các TCCĐ , hội đoàn , liên hội đã chui đầu vào lưới có dám kêu gọi đồng bào đi biểu tình không ? và có ai nghe lời kêu gọi của quý vị không?
Nhưng may mắn thay lời tố giác của ông Hồng Phúc đã khiến cho hàng ngàn thính giả hiểu biết thấy được bản chất thật được che dấu dưới bộ mặt chống cộng giả hình của quý ông bà , nên tránh đươc sự sụp đổ niềm tin, vì thế cho dù lời tố giác của ông Hồng Phúc phát xuất từ động cơ xấu như các ông bà vẫn rêu rao thì lời tố giác ấy vẫn có giá trị và được trân quý .
Nói tóm lại, các ông bà là những KẺ PHẢN BỘI trong giới truyền thông, đang hủy hoại tinh thần chống cộng của đồng bào , lường gạt TÌNH (niềm tin, yêu) TIỀN(kêu gào ủng hộ) của đồng bào, tàn nhẫn hơn lại từ những cụ già sống nhờ tiền trợ cấp xã hội chắt chiu dành dụm gởi gấm đến quí vị với tất cả niềm tin yêu để chỉ mong sớm có ngày về được chết trên quê hương .Hành động này cần phải bị lên án và dập tắt .
"Đường về quê lại thêm xa lắc lê thê vì đã trót nghe theo lời u mê".
Viết từ vùng sa mạc New Mexico ngày 8 /11/2009
Đoàn Trọng Hiếu
Sunday, November 8, 2009
Đừng Coi Thường Các Dấu Hiệu Báo Trước.
Đỗ Văn Phúc
Chiều thứ Năm, 5 tháng 11, 2009, một vụ thảm sát tại Fort Hood gây một chấn động lớn trên toàn nước Mỹ. Fort Hood, cách thủ phủ Austin của Tiểu bang Texas chừng 40 dặm, là một căn cứ quân sự lớn nhất Hoa Kỳ. Đây là nơi đồn trú thường trực của hơn 60000 quân nhân lục quân, là nơi chuẩn bị quân số để tăng cường cho các chiến trường Afganistan và Iraq.
Thiếu tá Nidal Malik Hasan, theo Hồi giáo, đã bắn hơn 100 viên đạn để giết chết 12 quân nhân và làm bị thương 32 người khác khi những người này đang có mặt tại một Trung Tâm Y Khoa, nơi Hasan là bác sĩ tâm lý có nhiệm vụ chuẩn bị tinh thần cho binh sĩ trước khi lên đường tham chiến ở Trung Đông vào cuối tháng 11 này
Cũng như ba vụ thảm sát tại Đại Học Texas ngày 1 tháng 8, 1966, Trung Học Columbine ngày 20 tháng 4, 1999 và Đại học Virginia Tech ngày 16 tháng 4, 2007, mà ba thủ phạm Charles Joseph Whitman, Dylan Klebold, và Seung Hui Cho đã cướp đi mạng sống của tổng cộng 58 nguời; người ta chỉ nhắc đến các dấu hiệu báo trước liên quan đến bọn sát nhân sau khi thảm kịch đã xảy ra.
Các dấu hiệu báo trước này (warning signs) đã được gia đình, bạn bè phát giác từ những trang blogs, các điện thư, các đoạn băng ghi hình, nhật ký, sự chuẩn bị… mà các thủ phạm đã biểu lộ hàng tuần, hàng tháng trước khi hành động. Người ta cũng nhắc đến các hiện tượng tâm lý bất thường của hung thủ. Trong vụ Fort Hood, thì người ta đã đưa ra những đoạn văn mà Hasan đã ca tụng bọn khủng bố Ả Rập là anh hùng.
Nhưng có lẽ những chuyện này bị coi là “chuyện nhỏ”, nên người ta đã không quan tâm đến, cho đến khi nổ ra chuyện lớn làm chết hàng loạt người một cách oan ức.
Trong đấu tranh chính trị, ngoại giao, hay chiến tranh quân sự, nhiệm vụ các cơ quan tình báo và an ninh là theo dõi, phát hiện kịp thời những hành vi, dự mưu, khuynh hướng mà có thể dẫn đến hành động đối nghịch. Ngay cả trong lãnh vực pháp luật, tuy chưa kết tội khi chưa có phán quyết của Toà với bằng chứng cụ thể; các cơ quan FBI, Cảnh Sát cũng phải tìm cách ngăn ngừa ngay khi có những phát hiện sơ khởi của tội phạm.
Người có thẩm quyền không chỉ theo dõi những kẻ bất mãn, mà còn lưu tâm đến những người quá tích cực. Phải tìm hiểu cho thấu đáo cái động cơ nào đã khiến họ bất mãn, tiêu cực hay sốt sắng, tích cực quá mức mong đợi. Kinh nghiệm cho thấy những gián điệp giỏi, biết luồn sâu, lách kín vào tổ chức đối phương thường tỏ ra “bảo hoàng hơn vua”, tạo ra nhiều thành tích công trạng sáng chói để ngoi lên trong giới lãnh đạo trước khi thực hiện mưu đồ. Huỳnh Văn Trọng leo đến chức Cố Vấn của Tổng Thống, Phạm Ngọc Thảo được tin cẩn giao cho làm Tỉnh trưởng Kiến Hoà, Phạm Ngọc Ẩn có nhiều uy tín trong báo giới với cả phiá Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Ai dám nghi ngờ những người này là phe địch trước khi cơ quan an ninh có đủ bằng cớ để quy tội họ là gián điệp Cộng Sản. Đại tá Truyền Tin Nguyễn Văn Tý bán khoá đối chứng (mật mã truyền tin dùng trong Quân Lực VNCH) cho Việt Cộng bao nhiêu năm dài, làm lộ bí mật các cuộc hành quân dẫn đến nhiều thiệt hại trầm trọng cho quân ta.
Bỏ qua việc ông Dương Văn Hiệp và bà Lưu Lệ Ngọc từng đi về Việt Nam, đi thoải mái từ Nam ra Bắc với dự tính “thiết lập chi nhánh đài VNHN tại Việt Nam”, thì việc giao tiếp của họ với cán bộ Việt Cộng đã bị phanh phui từ hơn tháng qua là một đề tài rất đáng lưu ý. Nhất là sự giải thích gượng ép và bất nhất của họ càng không thể chấp nhận được.
Trong một lá thư của ban Giám Đốc đài VNHN ngày 20 tháng 9, 2009 có đoạn viết:
“… Trong buổi tiệc mừng sinh nhật chị Lưu Lệ Ngọc vào năm 2007 tại nhà hàng Hee Been ở Virgnia, một người bạn trong nhóm thân hữu đã đi cùng với 2 nhân viên tòa đại sứ Việt Cộng đến tham dự. Anh chị Dương Văn Hiệp đã không mời những người này….”
Rồi sau đó, cũng những vị này giải thích là tiếp xúc với VC để chiêu hồi (Thư từ chức của ông Hiệp và bà Lệ Ngọc ngày 15 tháng 10, 2009) như sau:
“… chúng tôi phải tiếp xúc với đủ mọi thứ người, nếu chúng tôi có phải tiếp xúc với DU HỌC SINH, với CÁN BỘ VIỆT CỘNG, là để TRANH LUẬN, là để GIÁO DỤC, là để TÌM HIỂU.. .hầu lấy đủ kiến thức thông tin…”
Thông thường, những tiệc tất niên, tân niên, sinh nhật là dành hạn chế cho gia đình, bạn bè thân thiết. Nếu ai đó vì lòng tham, muốn có thêm quà cáp; hay muốn chứng tỏ mình là người có tiếng tăm, giao thiệp rộng; thì cũng chỉ mời rộng thêm ra trong thân hữu, hay có quan hệ xã hội như đồng nghiệp, đồng hội, các lãnh đạo hội đoàn, hàng xóm… Khó có thể thông cảm được sự có mặt của những kẻ thù mà mình ghê tởm và hàng ngày lên án trong cái không khí ấm cúng thân thiện của các buổi tiệc gia đình như đã nói.
Đặc biệt, việc chiêu hồi, lấy tin là công tác của các điệp viên của những tổ chức chính đảng hay mặt trận đang đấu tranh. Các công tác này không thể là việc của những cá nhân cho dù giỏi đến mấy, và đang hoạt động trong lãnh vực nào.
Điều đáng buồn là đã có nhiều anh chị em trong tập thể cựu quân nhân, cựu tù nhân, cộng đồng đương nhiệm đã vì lý do nào đó mà lên tiếng bênh vực cho những việc làm sai trái này của hai vợ chồng ông Hiệp.
Một cách chính thức, ông Đỗ Hồng Anh, Chủ Tịch Cộng Đồng Hoa Thịnh Đốn, đã ra một thông cáo (ngày 5 tháng 11, 2009) coi như “huề cả làng”
Trong thông cáo có đoạn viết:
“Không thể chấp nhận trong lúc này bất cứ một cuộc tiếp xúc, giao du nào giữa người Việt quốc gia với cán bộ CSVN duới bất cứ hình thức nào, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, với bất cứ lý do gì và trong bất cứ tình huống nào”
Dù là người ít học nhất, chúng tôi cũng hiểu ông Đỗ Hồng Anh sẵn sàng bỏ qua những việc giao tiếp với VC trong quá khứ, và có thể trong tương lai; mà chỉ “không chấp nhận trong lúc này”, tức vào thời điểm ông ra thông cáo 5/11/2009.
Ông Đỗ Hồng Anh đem thành tích của đài trong 12 năm qua để bảo đảm cho lập trường của ban Giám Đốc, mà ông quên rằng người ta chỉ nhắc đến vài cá nhân trong Ban Giám Đốc đã có hành vi ngược lại quan điểm của người Việt Tị nạn. Người ta không vơ đũa cả nắm tố cáo hết cả ban Giám Đốc nói riêng hay cả hệ thống đài VNHN nói chung. Tôi không rõ là những người bạn của ông Nguyễn Cao Kỳ có thể mượn cách lý luận này để bào chữa cho việc ông Kỳ giao du với Việt Cộng không?
Trong một đoạn đánh số 2, ông Đỗ Hồng Anh cho rằng “cho đến nay không thấy có một hậu quả nào có thể gọi là làm lợi cho CSVN và gây nguy hại cho công cuộc đấu tranh của người Việt quốc gia chúng ta”
Làm chính trị là tiên liệu. Đằng này triệu chứng đã phơi bày mà không có biện pháp ngăn ngừa; lại muốn chờ cho đến khi tai họa xảy ra mới thừa nhận thì than ôi! lại một lần thảm bại nữa!
Khi đọc đến phần chót, ông Đỗ Hồng Anh “Kêu gọi đồng hương và các hội đoàn hãy đề cao cảnh giác trước những âm mưu thừa nước đục thả câu, đánh phá cùng xúi giục các hội đoàn và cá nhân trong cộng đồng người Việt quốc gia nhằm triệt hạ uy tín và làm sụp đổ các cơ quan truyền thông là nơi có những tiếng nói chống cộng hữu hiệu để dọn đường cho công cụ tuyên truyền của CSVN xâm nhập và lũng đoạn hàng ngũ người Việt quốc gia theo Nghị Quyết 36 của chúng. “
Chúng tôi không khỏi không liên tưởng đến cách chụp mũ mà Cộng sản đã sử dụng trong chính sách cai trị, răn đe của chúng đối với công dân hay những người đối lập. Đối với chúng, quốc gia bị đồng hoá với đảng Cộng sản, nói trắng ra, đồng hoá bọn lãnh đạo đảng. Đảng là trên hết, đảng là tổ quốc vì “yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã Hội”, là chấp nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, là vân vân và vân vân. Người dân nào lên tiếng phê bình chính sách hay nhân sự của đảng đều bị coi là chống lại đất nước, là “xâm phạm an ninh tổ quốc”.
Chẳng rõ ông Đỗ Hồng Anh có dám coi nhân sự của đài VNHN và nhân sự của Ban Chấp Hành Cộng Đồng là toàn hảo không, là không hề làm điều gì sai không? Và ông Anh có đủ bản lãnh dân chủ để đón nhận sự phê bình của người khác không? Hay hể ai đụng đến nhân sự của ông đều là hành vi mà ông gọi là “đánh phá”, “xúi dục” “nhằm triệt hạ uy tín” của các tổ chức mà ông bao che? Ông Anh cần lưu ý, là những người phê bình chỉ nhắm vào các thái độ, hành vi chính trị của những vị này. Đây là điều rất đáng khuyến khích và rất cần có trong một xã hội dân chủ.
Thưa ông Đỗ Hồng Anh, khi lên tiếng về việc giao du của vài nhân vật lãnh đạo trong đài VNHN, là chúng ta đã ngăn chặn sự “dọn đường cho công cụ tuyên truyền của CSVN xâm nhập” như ông đang lo ngại đấy. Còn việc lũng đoạn hàng ngũ người Việt quốc gia, là do ý thức của mỗi người – trong đó có ông và có tôi - biết tự chế, không để tình cảm cá nhân làm mờ lý trí, lạc hướng nhận thức về mối hiểm họa chính trị tương lai rất cận kề; làm cho chúng ta quay ra đánh phá nhau bằng những moi móc cá nhân nhỏ nhen trong khi dung dưỡng những hành vi sai trái. Nghị quyết 36 của Việt Cộng chỉ có thể thành công khi còn có những người lãnh đạo trong hàng ngũ Quốc gia quá ngây thơ, nhận thức non nớt và thiếu bản lãnh, kinh nghiệm đối phó.
Rất nhiều người đã tỏ ra vô cùng ngạc nhiên sau khi đọc bản thông cáo của ông Chủ Tịch Cộng Đồng vùng Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi thật tình không rõ trong cuộc đấu tranh chống Cộng, hai chân ông Chủ tịch đang đứng ở phía bên nào? Xin ông chọn một bên, bên nào cũng được, dứt khoát và rõ rang. Còn cứ đứng dạng hai chân hai bên thì vừa mỏi chân vừa có ngày ngã đau.
Đỗ Văn Phúc
Chiều thứ Năm, 5 tháng 11, 2009, một vụ thảm sát tại Fort Hood gây một chấn động lớn trên toàn nước Mỹ. Fort Hood, cách thủ phủ Austin của Tiểu bang Texas chừng 40 dặm, là một căn cứ quân sự lớn nhất Hoa Kỳ. Đây là nơi đồn trú thường trực của hơn 60000 quân nhân lục quân, là nơi chuẩn bị quân số để tăng cường cho các chiến trường Afganistan và Iraq.
Thiếu tá Nidal Malik Hasan, theo Hồi giáo, đã bắn hơn 100 viên đạn để giết chết 12 quân nhân và làm bị thương 32 người khác khi những người này đang có mặt tại một Trung Tâm Y Khoa, nơi Hasan là bác sĩ tâm lý có nhiệm vụ chuẩn bị tinh thần cho binh sĩ trước khi lên đường tham chiến ở Trung Đông vào cuối tháng 11 này
Cũng như ba vụ thảm sát tại Đại Học Texas ngày 1 tháng 8, 1966, Trung Học Columbine ngày 20 tháng 4, 1999 và Đại học Virginia Tech ngày 16 tháng 4, 2007, mà ba thủ phạm Charles Joseph Whitman, Dylan Klebold, và Seung Hui Cho đã cướp đi mạng sống của tổng cộng 58 nguời; người ta chỉ nhắc đến các dấu hiệu báo trước liên quan đến bọn sát nhân sau khi thảm kịch đã xảy ra.
Các dấu hiệu báo trước này (warning signs) đã được gia đình, bạn bè phát giác từ những trang blogs, các điện thư, các đoạn băng ghi hình, nhật ký, sự chuẩn bị… mà các thủ phạm đã biểu lộ hàng tuần, hàng tháng trước khi hành động. Người ta cũng nhắc đến các hiện tượng tâm lý bất thường của hung thủ. Trong vụ Fort Hood, thì người ta đã đưa ra những đoạn văn mà Hasan đã ca tụng bọn khủng bố Ả Rập là anh hùng.
Nhưng có lẽ những chuyện này bị coi là “chuyện nhỏ”, nên người ta đã không quan tâm đến, cho đến khi nổ ra chuyện lớn làm chết hàng loạt người một cách oan ức.
Trong đấu tranh chính trị, ngoại giao, hay chiến tranh quân sự, nhiệm vụ các cơ quan tình báo và an ninh là theo dõi, phát hiện kịp thời những hành vi, dự mưu, khuynh hướng mà có thể dẫn đến hành động đối nghịch. Ngay cả trong lãnh vực pháp luật, tuy chưa kết tội khi chưa có phán quyết của Toà với bằng chứng cụ thể; các cơ quan FBI, Cảnh Sát cũng phải tìm cách ngăn ngừa ngay khi có những phát hiện sơ khởi của tội phạm.
Người có thẩm quyền không chỉ theo dõi những kẻ bất mãn, mà còn lưu tâm đến những người quá tích cực. Phải tìm hiểu cho thấu đáo cái động cơ nào đã khiến họ bất mãn, tiêu cực hay sốt sắng, tích cực quá mức mong đợi. Kinh nghiệm cho thấy những gián điệp giỏi, biết luồn sâu, lách kín vào tổ chức đối phương thường tỏ ra “bảo hoàng hơn vua”, tạo ra nhiều thành tích công trạng sáng chói để ngoi lên trong giới lãnh đạo trước khi thực hiện mưu đồ. Huỳnh Văn Trọng leo đến chức Cố Vấn của Tổng Thống, Phạm Ngọc Thảo được tin cẩn giao cho làm Tỉnh trưởng Kiến Hoà, Phạm Ngọc Ẩn có nhiều uy tín trong báo giới với cả phiá Hoa Kỳ lẫn Việt Nam. Ai dám nghi ngờ những người này là phe địch trước khi cơ quan an ninh có đủ bằng cớ để quy tội họ là gián điệp Cộng Sản. Đại tá Truyền Tin Nguyễn Văn Tý bán khoá đối chứng (mật mã truyền tin dùng trong Quân Lực VNCH) cho Việt Cộng bao nhiêu năm dài, làm lộ bí mật các cuộc hành quân dẫn đến nhiều thiệt hại trầm trọng cho quân ta.
Bỏ qua việc ông Dương Văn Hiệp và bà Lưu Lệ Ngọc từng đi về Việt Nam, đi thoải mái từ Nam ra Bắc với dự tính “thiết lập chi nhánh đài VNHN tại Việt Nam”, thì việc giao tiếp của họ với cán bộ Việt Cộng đã bị phanh phui từ hơn tháng qua là một đề tài rất đáng lưu ý. Nhất là sự giải thích gượng ép và bất nhất của họ càng không thể chấp nhận được.
Trong một lá thư của ban Giám Đốc đài VNHN ngày 20 tháng 9, 2009 có đoạn viết:
“… Trong buổi tiệc mừng sinh nhật chị Lưu Lệ Ngọc vào năm 2007 tại nhà hàng Hee Been ở Virgnia, một người bạn trong nhóm thân hữu đã đi cùng với 2 nhân viên tòa đại sứ Việt Cộng đến tham dự. Anh chị Dương Văn Hiệp đã không mời những người này….”
Rồi sau đó, cũng những vị này giải thích là tiếp xúc với VC để chiêu hồi (Thư từ chức của ông Hiệp và bà Lệ Ngọc ngày 15 tháng 10, 2009) như sau:
“… chúng tôi phải tiếp xúc với đủ mọi thứ người, nếu chúng tôi có phải tiếp xúc với DU HỌC SINH, với CÁN BỘ VIỆT CỘNG, là để TRANH LUẬN, là để GIÁO DỤC, là để TÌM HIỂU.. .hầu lấy đủ kiến thức thông tin…”
Thông thường, những tiệc tất niên, tân niên, sinh nhật là dành hạn chế cho gia đình, bạn bè thân thiết. Nếu ai đó vì lòng tham, muốn có thêm quà cáp; hay muốn chứng tỏ mình là người có tiếng tăm, giao thiệp rộng; thì cũng chỉ mời rộng thêm ra trong thân hữu, hay có quan hệ xã hội như đồng nghiệp, đồng hội, các lãnh đạo hội đoàn, hàng xóm… Khó có thể thông cảm được sự có mặt của những kẻ thù mà mình ghê tởm và hàng ngày lên án trong cái không khí ấm cúng thân thiện của các buổi tiệc gia đình như đã nói.
Đặc biệt, việc chiêu hồi, lấy tin là công tác của các điệp viên của những tổ chức chính đảng hay mặt trận đang đấu tranh. Các công tác này không thể là việc của những cá nhân cho dù giỏi đến mấy, và đang hoạt động trong lãnh vực nào.
Điều đáng buồn là đã có nhiều anh chị em trong tập thể cựu quân nhân, cựu tù nhân, cộng đồng đương nhiệm đã vì lý do nào đó mà lên tiếng bênh vực cho những việc làm sai trái này của hai vợ chồng ông Hiệp.
Một cách chính thức, ông Đỗ Hồng Anh, Chủ Tịch Cộng Đồng Hoa Thịnh Đốn, đã ra một thông cáo (ngày 5 tháng 11, 2009) coi như “huề cả làng”
Trong thông cáo có đoạn viết:
“Không thể chấp nhận trong lúc này bất cứ một cuộc tiếp xúc, giao du nào giữa người Việt quốc gia với cán bộ CSVN duới bất cứ hình thức nào, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, với bất cứ lý do gì và trong bất cứ tình huống nào”
Dù là người ít học nhất, chúng tôi cũng hiểu ông Đỗ Hồng Anh sẵn sàng bỏ qua những việc giao tiếp với VC trong quá khứ, và có thể trong tương lai; mà chỉ “không chấp nhận trong lúc này”, tức vào thời điểm ông ra thông cáo 5/11/2009.
Ông Đỗ Hồng Anh đem thành tích của đài trong 12 năm qua để bảo đảm cho lập trường của ban Giám Đốc, mà ông quên rằng người ta chỉ nhắc đến vài cá nhân trong Ban Giám Đốc đã có hành vi ngược lại quan điểm của người Việt Tị nạn. Người ta không vơ đũa cả nắm tố cáo hết cả ban Giám Đốc nói riêng hay cả hệ thống đài VNHN nói chung. Tôi không rõ là những người bạn của ông Nguyễn Cao Kỳ có thể mượn cách lý luận này để bào chữa cho việc ông Kỳ giao du với Việt Cộng không?
Trong một đoạn đánh số 2, ông Đỗ Hồng Anh cho rằng “cho đến nay không thấy có một hậu quả nào có thể gọi là làm lợi cho CSVN và gây nguy hại cho công cuộc đấu tranh của người Việt quốc gia chúng ta”
Làm chính trị là tiên liệu. Đằng này triệu chứng đã phơi bày mà không có biện pháp ngăn ngừa; lại muốn chờ cho đến khi tai họa xảy ra mới thừa nhận thì than ôi! lại một lần thảm bại nữa!
Khi đọc đến phần chót, ông Đỗ Hồng Anh “Kêu gọi đồng hương và các hội đoàn hãy đề cao cảnh giác trước những âm mưu thừa nước đục thả câu, đánh phá cùng xúi giục các hội đoàn và cá nhân trong cộng đồng người Việt quốc gia nhằm triệt hạ uy tín và làm sụp đổ các cơ quan truyền thông là nơi có những tiếng nói chống cộng hữu hiệu để dọn đường cho công cụ tuyên truyền của CSVN xâm nhập và lũng đoạn hàng ngũ người Việt quốc gia theo Nghị Quyết 36 của chúng. “
Chúng tôi không khỏi không liên tưởng đến cách chụp mũ mà Cộng sản đã sử dụng trong chính sách cai trị, răn đe của chúng đối với công dân hay những người đối lập. Đối với chúng, quốc gia bị đồng hoá với đảng Cộng sản, nói trắng ra, đồng hoá bọn lãnh đạo đảng. Đảng là trên hết, đảng là tổ quốc vì “yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã Hội”, là chấp nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, là vân vân và vân vân. Người dân nào lên tiếng phê bình chính sách hay nhân sự của đảng đều bị coi là chống lại đất nước, là “xâm phạm an ninh tổ quốc”.
Chẳng rõ ông Đỗ Hồng Anh có dám coi nhân sự của đài VNHN và nhân sự của Ban Chấp Hành Cộng Đồng là toàn hảo không, là không hề làm điều gì sai không? Và ông Anh có đủ bản lãnh dân chủ để đón nhận sự phê bình của người khác không? Hay hể ai đụng đến nhân sự của ông đều là hành vi mà ông gọi là “đánh phá”, “xúi dục” “nhằm triệt hạ uy tín” của các tổ chức mà ông bao che? Ông Anh cần lưu ý, là những người phê bình chỉ nhắm vào các thái độ, hành vi chính trị của những vị này. Đây là điều rất đáng khuyến khích và rất cần có trong một xã hội dân chủ.
Thưa ông Đỗ Hồng Anh, khi lên tiếng về việc giao du của vài nhân vật lãnh đạo trong đài VNHN, là chúng ta đã ngăn chặn sự “dọn đường cho công cụ tuyên truyền của CSVN xâm nhập” như ông đang lo ngại đấy. Còn việc lũng đoạn hàng ngũ người Việt quốc gia, là do ý thức của mỗi người – trong đó có ông và có tôi - biết tự chế, không để tình cảm cá nhân làm mờ lý trí, lạc hướng nhận thức về mối hiểm họa chính trị tương lai rất cận kề; làm cho chúng ta quay ra đánh phá nhau bằng những moi móc cá nhân nhỏ nhen trong khi dung dưỡng những hành vi sai trái. Nghị quyết 36 của Việt Cộng chỉ có thể thành công khi còn có những người lãnh đạo trong hàng ngũ Quốc gia quá ngây thơ, nhận thức non nớt và thiếu bản lãnh, kinh nghiệm đối phó.
Rất nhiều người đã tỏ ra vô cùng ngạc nhiên sau khi đọc bản thông cáo của ông Chủ Tịch Cộng Đồng vùng Hoa Thịnh Đốn. Chúng tôi thật tình không rõ trong cuộc đấu tranh chống Cộng, hai chân ông Chủ tịch đang đứng ở phía bên nào? Xin ông chọn một bên, bên nào cũng được, dứt khoát và rõ rang. Còn cứ đứng dạng hai chân hai bên thì vừa mỏi chân vừa có ngày ngã đau.
NGHỊ QUYẾT 36 THẮNG LỚN
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Bà Bút Vàng phát ngôn: tên Nguyễn Phương Hùng nói xấu giáo sư Vinh: ergo hắn là cộng sản. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh phán: Tôi không nói anh (Nguyễn Phương Hùng) là CS, nhưng anh có những bài viết chứng tỏ anh là Việt gian. Còn nhà văn Chu Tất Tiến điểm mặt: Nam Nhân, Việt Thường luôn luôn đánh phá tất cả mọi người chống cộng, sure bọn này là CS. Đấy là vài ba điển hình tố cộng mà chúng tôi đọc được trên internet gần đây. Cả ba là những người có máu mặt trên báo chí, các diễn đàn, và trong cộng đồng. Những nhà chống cộng khác trong đám dân trên không chằng, dưới không rễ thì loạn trên các diễn đàn, không sao kể cho xiết. Thế nhưng, chuyện ông bà Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc, giám đốc của đài VNHN mời cán bộ tòa đại sứ VGCS tại Washington tới nhà ăn nhậu với cả đám nhân viên, bạn bè thì lại là chuyện bìn h thường, chả có con ma nào théc méc. May mà hai năm sau nhà báo Hồng Phúc mới khui ra. Giả như ông Hồng Phúc không ngứa miệng phun ra thì chuyện đã đi vào quên lãng. Các ông bà Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc vẫn nghiễm nhiên là các nhà chống cộng đầy thành tích. Chứ có ai rỗi hơi mà bới móc ra làm chi cho mệt xác, biết đâu còn mang họa vào thân. CS đặt tòa lãnh sự tại Houston , ai ai cũng nhoi nhoi phản đối. Các ông lãnh đạo chống cộng tại địa phương kêu gọi dân biểu tình trước một cái chợ. Đại thành công! Nghe đâu những 5 ngàn người. Biểu tình xong, ai về nhà nấy, thỏa mãn. Tự ái của đồng bào đã được vuốt ve: biểu tình những 5 ngàn người lận. Các nhà chống cộng lại ghi thêm được một thành tích hiển hách giữ làm credit để dùng cho sau này. Thằng CS vẫn cứ đặt tòa lãnh sự của chúng để tiện cấp chiếu khán cho đồng bào về nạp mãi lộ và du hí. Có sao đâu. Sự việc ồn lên một dạo, nhưng êm rồi. Lại đâu vào đấy: đường ta ta cứ đi, đường nó (VGCS) nó vẫn phăng phăng bước tới. Làm gì nhau đây! Chẳng lẽ đường lối hợp tác giai đoạn của nhà chống cộng Al. Hoàng với Việt Tân ép phê (effet) lẹ thế?
Hoạt cảnh chống cộng của chúng ta hiện nay đại khái là như vậy. Trước đây không có thế. Bây giờ thay đổi rồi. Người ta cho rằng đó là kết quả của Nghị Quyết 36 của VGCS. Ai tin cứ tin. Ai không tin thây kệ. Tự do mà! Dưới con mắt loạn thị của người viết thì quả thật nghị quyết 36 có vẻ đang thắng lớn. Nó thắng thế nào, thắng làm sao, và tại sao thắng, đó là những vấn đề chúng tôi muốn đem bàn đến ở đây.
Vài nét về Nghị Quyết 36
Phần lớn chúng ta có lẽ chỉ nghe nói Nghị Quyết 36 nhưng chưa thấy cái đồ quỉ này nó mặt ngang mũi dọc ra sao. Vâng, chính xác cái văn kiện này được gọi là Nghị Quyết 36/NQ-TW (Xin vắn tắt là NQ36) được Bộ CT đảng VGCS ban hành ngày 26-3-2004. Trước khi có NQ36, VGCS đã thử thời vận nhiều cách để nhử mồi người tỵ nạn ở nước ngoài. Nhiều tên trí thức ăn cơm quốc gia thờ ma CS như BS Bùi Kiện Tín ở Pháp, TS Phó Bá Long ở Canada (?) v.v. đã ra công khuyển mã giúp cho bọn VGCS, nhưng đều mang thất bại. Năm 1993, VGCS đã thử mở ra một cái gọi là Đại Hội Việt Kiều, Phó Bá Long xun xoe về tham dự có gởi kiến nghị xin VGCS bỏ chiếu khán cho Việt kiều về thăm nhà, dễ dãi việc mua nhà đất, và nhất là Long còn đề nghị VGCS ban lệnh đại xá cho tất cả mọi người bỏ nước ra đi tỵ nạn CS. Tội vạ gì mà đại xá đây, GS Long?
Cha đẻ của NQ36 là Phan Diễn. Phan Diễn đứng hàng thứ 15 trong Bộ CT đảng CS, bí thư thành ủy Đà Nẵng, một tên tham nhũng có hạng. Diễn là con Phan Thanh, cháu nội Phan Khôi. Cụ Phan Khôi là một nhà văn hóa lớn chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm chống đảng nên bị thanh trừng và bị cô lập cho đến chết. Nếu Trường Chinh đấu tố bố mẹ đẻ ra hắn không làm chúng ta ngạc nhiên, thì chúng ta cũng chẳng nên lấy làm lạ chuyện Phan Diễn hoàn toàn vô cảm đối với việc người ông của hắn bị bạc đãi và bị đầy ải cho đến khi xuống lỗ. Đó là kết quả trăm năm trồng người của tên cáo già Hồ Chí Minh. Phan Diễn không những đã dửng dưng trước việc đảng đầy đọa ông nội hắn mà còn cúc cung tận tụy phục vụ CS bằng cách cuối đời đẻ ra cái NQ36 bất nhân mà chúng tôi đang nói đây.
NQ36 gồm có 4 phần. Phần cuối cùng phân công các cơ quan có trách nhiệm thi hành nghị quyết. Các phần 1 và 2 dành tâng bốc, vuốt ve, khuyến dụ, và hứa hẹn đủ điều với cộng đồng người tỵ nạn. Qua nghị quyết, VGCS công nhận người tỵ nạn, mà chúng đổi danh xưng gọi là người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, thành công về nhiều mặt, có tiềm lực kinh tế lớn, có tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương. Chúng xác nhận có một số đã trở về đầu hàng VGCS và đóng góp cho chúng. Nhưng đồng thời chúng cũng không quên cảnh cáo rằng nhiều người vẫn còn ra sức chống phá CS. Tuy thế chúng lại nói đảng và Nhà nước luôn luôn coi cộng đồng người tỵ nạn là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nên cần phải được săn sóc và giúp đỡ, nhất là trong các lãnh vực phát thanh, truyền hình và các nhu cầu về văn hóa. Chúng kêu gọi xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp tạo ra, xây dựng tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Chúng hứa hẹn nhà nước sẽ thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng ngưới tỵ nạn theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Chúng khuyến khích người tỵ nạn mau chóng hội nhập để làm ăn, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa bà con sinh sống với trong nước, tùy theo khả năng và điều kiện của mỗi người, góp phần xây dựng quê hương đất nước, đặc biệt nhấn mạnh là chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung cuả dân tộc, nghĩa đúng của lối nói này là chống lại VGCS.
Phần 3 mới là chủ yếu của nghị quyết, gồm có các điểm sau đây:
1. VGCS sẽ tiến hành đàm phán và ký kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lãnh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích của người tỵ nạn, giải quyết các yêu cầu của người tỵ nạn liên quan đến vấn đề quốc tịch. Hứa tạo điều kiện để đồng bào tỵ nạn về thăm quê hương, thân nhân. Cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong nước của người tỵ nạn, thông thoáng và đơn giản hóa các thủ tục. Giải quyết nhanh chóng thủ tục cho người tỵ nạn hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước. Tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi ... liên quan đến người tỵ nạn. Dành cho người tỵ nạn giá dịch vụ như công dân trong nước.
2. Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức hải ngoại vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với chuyên gia, trí thức hải ngoại có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật trong nước. Mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức hải ngoại tham gia các công việc ở trong nước, làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài.
3. Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người tỵ nạn hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người tỵ nạn làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng phong trào tiêu thụ hàng hóa của VN.
4. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích khuyến khích những hoạt động hướng về quê hương của người tỵ nạn, nhất là của thế hệ trẻ. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người tỵ nạn, kể cả với những người mà VGCS coi là còn có định kiến, mặc cảm với chúng.
5. Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người tỵ nạn, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho người tỵ nạn, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên tỵ nạn. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tỵ nạn về nước biểu diễn và tham gia các đoàn VN đi biểu diễn quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lãm, hội thảo, du lịch về cội nguồn, tức là về phục vụ cho VGCS.
6. Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền để bịt mắt người tỵ nạn về tình hình đất nước và chính sách của đảng CS. Đầu tư cho các chương trình dành cho người tỵ nạn của các đài phát thanh, truyền hình và Internet. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ người tỵ nạn. Hỗ trợ tiền bạc để vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra hải ngoại để phục vụ cộng đồng tỵ nạn.
7. Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người tỵ nạn có công đối với CS. Đồng thời có biện pháp đấu tranh phù hợp (tức là tiêu diệt) với những người có biểu hiện cố tình đi ngược lại với VGCS.
8. Củng cố và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người tỵ nạn. Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài có trách nhiệm coi công tác đối với người tỵ nạn là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Chủ động tăng cường tiếp xúc, vận động, truyền bá và phổ biến chủ trương, chính sách của đảng VGCS.
9. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người tỵ nạn tại cơ quan đại diện ngoại giao của VGCS ở những nơi có đông người tỵ nạn sinh sống. Một số bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố có quan hệ nhiều với người tỵ nạn cần có bộ phận giúp cơ quan lãnh đạo trong công tác đối với người tỵ nạn. Bổ sung kinh phí cho công tác này.
Xét về mặt thực hành, các chính sách nêu trên có tác dụng hai mặt. Một là nó tạo ra con đường cho CS xâm nhập và trà trộn vào cộng đồng hầu lũng đoạn, chinh phục, và nhuộm đỏ khối người tỵ nạn chúng ta. Và hai là nó cung cấp cho người tỵ nạn một thứ vũ khí rất lợi hại để chúng ta tự đánh đấm, chém giết nhau không cần đến bàn tay của bọn VGCS. Tác dụng gây lũng đoạn này báo chí quen gọi là “chụp mũ” hay là “đội nón cối”. Sống trong một cộng đồng chống cộng mạnh, kẻ bị đội nón cối rất khó được tín cẩn. Hậu quả thê thảm của việc đội nón cối lên đầu nhau là người ta coi nhau là kẻ thù cần phải tiêu diệt còn hơn là CS. Rất nhiều người nhân danh chống cộng để đội nón cối lên đầu người khác, mặc dầu thời đại này đối với VGCS, dép râu, nón cối là thứ trang bị cá nhân cho các cán bộ CS đã hoàn toàn lỗi thời rồi. Có thể nói đa số những người tố cáo và chụp mũ kẻ khác đều mang tinh thần phe phái và định kiến: kẻ không theo chúng tôi và hành động khác chúng tôi tất nhiên là CS. Hà mỗ này cũng đã từng là nạn nhân của việc bị úp chụp cái nón cối lên đầu, nên bây giờ cứ như con chim bị ná vậy. Ngay cái tựa đề của bài viết này chưa biết chừng cũng có thể có kẻ vin vào đó la toáng lên rằng chúng tôi ca tụng CS hoặc làm lợi cho CS. Nhưng bất chấp, chúng tôi viết trong tinh thần tự kiểm để biết mình, biết người. Thế thôi. Chúng tôi không viết theo lối xảo ngôn của một số nhà chống cộng hiện nay để lừa bịp và ru ngủ quần chúng. Có kẻ viết rằng CS đang dẫy chết. Người khác lại bảo Hànội đang hoảng lên vì đảng đang tan rã. Chừng nào thì VGCS mới dẫy chết? Nó dẫy chết nhưng nó đang sắp nuốt sống cộng đồng tỵ nạn rồi đấy. Mở banh mắt ra mà nhìn. Nó tan rã ư? Một năm có được mấy đứa phải trả thẻ đảng vì bị đào thải, so với hàng ngàn hàng vạn đứa khác đạp lên nhau để mong được vào đảng. Đó là sự thực. Hãy lương thiện với đồng bào. Hãy nói lên sự thật cho đồng bào nghe. Đừng phỉnh gạt, dấu giếm, lừa bịp, tội nghiệp đồng bào. Với một cái nhìn lương thiện thì NQ36 đang thành công lớn cả về hậu quả xâm nhập lẫn tác dụng gây phân hóa trong cộng đồng.
Hậu quả của xâm nhập
Có ai trong chúng ta còn nghi ngờ việc VGCS len lỏi xâm nhập vào hàng ngũ người tỵ nạn không? Chắc chắn là không, mặc dầu chúng ta chưa bao giờ bắt được tại trận một tên VGCS nào hết. Nhưng chúng ta tin và điều tin tưởng của chúng ta là thật, chỉ đơn giản dựa trên sự thật lịch sử là ngày xưa chúng ta có cả một chế độ vững chắc, một quân đội hùng mạnh, cùng với nhiều cơ quan an ninh dầy đặc mà còn có những tên VGCS trà trộn vào ở hẳn trong dinh Độc Lập được, thì bây giờ trong một cộng đồng phân hóa như hiện nay, VGCS đi vào sống giữa chúng ta là chuyện quá dễ dàng. Chúng có thể là du học sinh, là cán bộ đi tu nghiệp, là thương gia đi khảo sát thị trường, là người di tản buồn, là thuyền nhân, là diện ODP, diện con lai, diện bảo lãnh, thậm chí cả diện HO (lao) nữa. Nói tắt một câu, cán bộ CS len lỏi vào sống trong cộng đồng là điều không còn gì phải thắc mắc. Chúng ta không căn cứ vào đâu được để xác định tên A, tên B là VGCS. Nhưng nhìn vào một số lãnh vực sinh hoạt hàng ngày trong cộng đồng thì thấy rõ là có VGCS hiện diện giữa chúng ta thật, và ảnh hưởng của chúng đang mỗi ngày mỗi lớn dần. Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số hiện tượng trong các lãnh vực sinh hoạt trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta để mọi người thấy rằng VGCS đã xâm nhập vào trong cộng đồng đến mức nào rồi.
1. Làm ăn thương mại
Trước kia không người tỵ nạn nào dám hở miệng nói ra là họ có dính líu làm ăn buôn bán với CS. Nhưng bây giờ, nhiều con buôn tỵ nạn công khai giao dịch với cán bộ CS không cần giấu diếm. Chúng ngang nhiên đến dự tiệc chiêu đãi của Nguyễn Minh Triết, của Nguyễn Tấn Dũng. Chúng mời cán bộ CS về nhà ăn nhậu mà chẳng thèm sợ ai đàm tiếu. Còn hơn thế nữa, bọn cán bộ trong nước dám công khai tạo mãi các khu thương mại trên đất Mỹ ngay tại khu vực đông người tỵ nạn để chúng ta làm giầu cho chúng. Chẳng còn ai nghi ngờ về chuyện bọn mafia CS mua những cơ sở thương mại và dịch vụ tại hải ngoại để kinh doanh, hoặc do con cái của chúng đang ở ngoại quốc đứng tên, hoặc do người tỵ nạn là bà con đứng tên dùm. Có trường hợp được được nhận diện, nhưng nhiều trường hợp khác còn được giấu kín. Người tỵ nạn đem tiền về VN tiêu xài hay gởi tiền về trong nước dưới nhiều hình thức. Tiền này chui vào túi các cán bộ CS. Đồng tiền đó lại được bọn tư bản đỏ đem ra nước ngoài kinh doanh buôn bán. Đây là một chuyến đi khứ hồi của đồng dollar Mỹ. Thử hỏi xem có ai trong chúng ta coi đó là một thách đố không? VGCS kêu gọi người tỵ nạn đem tiền về đầu tư, nhưng chính chúng lại đi đầu tư ở ngước ngoài. Sự thể cho thấy là một mặt bọn VGCS không còn tin tưởng vào tương lai của chế độ, nhưng mặt khác chúng đạt được thành công trong việc biến khối người tỵ nạn thành những kẻ làm giầu cho chúng. Người tỵ nạn tự nhiên trở thành những con bò cho bọn mafia CS vắt sữa ngay trong những cái chuồng mà đồng bào tạo dựng nên. Lợi nhuận do việc đầu tư này VGCS dùng để tài trợ cho các hoạt động đánh phá người tỵ nạn, một phần chúng nuôi bọn chống cộng cò mồi ở hải ngoại. Mối nhục lớn cho cộng đồng là các nhà chống cộng của chúng ta cứ mỗi khi hoạt động lại phải ngửa tay xin tiền từ các tên VGCS hoặc những kẻ làm ăn với chúng. Nếu bỏ chút ít tiền bạc ra mướn lũ cò mồi chống cộng cho vui thì tại sao chúng không làm. Chúng có thiệt hại gì đâu. Cuộc đấu tranh chống cộng vì có lũ cò mồi đã trở thành trò hề lố bịch. Lãnh tiền của CS để chống cộng. Tiếu lâm thật, nhưng lại là thực tại muôn thuở.
2. Văn hóa, văn học
Sách báo tuyên truyền của VGCS bầy công khai trong các tiệm sách, thư viện, những nơi có đông người tỵ nạn. Các cuộc trao đổi giáo sư, sinh viên diễn ra hầu như thường xuyên giữa các đại học trong và ngoài nước. Con em người tỵ nạn về trong nước học hỏi được cái gì từ đỉnh cao trí tuệ VGCS? Hiện tượng giao lưu văn hóa qua cái gọi là hội thảo chuyên đề của các nhà trí thức trong và ngoài nước cũng đã thấy lai rai xẩy ra. Điều đáng ngạc nhiên là các nhà trí thức tại hải ngoại lại không hề nghĩ là mình đang tự chui vào cái tròng hoà hợp hòa giải của VGCS. Bằng cấp cao nhưng trí đoản của bọn school smart (mọt sách) là như thế. Thực tế đang diễn ra, đám khoa bảng thường lại là những kẻ có tinh thần chủ bại và đầu hàng trước nhất. Người bình dân về VN thăm nhà nhưng tinh thần chống cộng vẫn quyết liệt. Trái lại bọn trí thức sẵn sàng HHHG với VGCS dưới các chiêu bài mầu mè. Ai là người chịu trách nhiệm để cho các loại văn hóa phẩm và tài liệu tuyên truyền xâm nhập. Người bình dân bận làm ăn rất ít đọc sách. Tuổi trẻ trình độ Việt ngữ đủ đâu vào đâu mà đọc tiếng Việt. Vậy thì ai vào đây, ai thích đọc và ai cần đọc sách của CS?
3. Tổ chức, đoàn thể
Cán bộ CS xâm nhập để lũng đoạn, làm ung thối, và phân hóa các đoàn thể, tổ chức của người quốc gia là chuyện xưa như trái đất rồi. Trước năm 1975, CS len lỏi trà trộn vào quân đội, cảnh sát, đảng phái, báo chí, cả đến các tôn giáo bằng đủ mọi hình thức. Ngày nay cũng sách đó thôi. Không đoàn thể nào, tổ chức nào, cộng đồng nào không bị chia năm sẻ bẩy do CS và tay sai xâm nhập phá hoại. Lạ lùng thay, nhóm nào cũng có người theo, người ủng hộ. Rõ ràng là đồng bào không có khả năng phân biệt được ai là CS, ai quốc gia, ai chống cộng thiệt, ai chống cộng cuội, mà chỉ a dua theo cảm tính. Ai là kẻ đứng sau lưng để phá nát các cộng đồng, đoàn thể? Không ai cả, mà chỉ toàn thấy rặt là những nhà chống cộng rất hăng say và to tiếng. Nếu cứ tính công sức những nhà chống cộng này đổ ra cho công cuộc chống cộng thì chắc chắn bọn CS nằm vùng đã không còn đất sống, thậm chí cái chế độ của chúng ở trong nước cũng đã bị tiêu ma lâu rồi. Nhưng kết quả ngược lại, CS càng ngày càng xâm nhập sâu hơn vào các cộng đồng đủ mọi ngành nghề, mọi sinh hoạt, và càng ngày chúng càng tung hoành trắng trợn hơn, mọi người đều thấy nhưng không làm gì được, bởi vì có nhiều người theo chúng. Người nặng đầu óc mê tín thì cho rằng NQ36 là một thứ bùa ngải rất linh. Nó có sức trấn áp mọi phương pháp chống lại nó. Nhưng người không tin vào bùa ngải quyết đoán rằng không có bùa ngải gì cả, chẳng qua là tại bọn VGCS học mót cái bí quyết quốc truyền của tổ phụ Washington của nước Mỹ thôi. Bí quyết này đã được chứng minh là cực kỳ hiệu nghiệm. Nó có thể đạp đổ những thần tượng cao ngạo nhất. Nó ngồi một chỗ mà với tay ra tận ngàn dặm giết chết lãnh tụ của một nước khác dễ như chơi. Nó còn có khả năng như một nhà ảo thuật đại tài, làm biến mất một quốc gia khỏi bản đồ thế giới. VGCS có tiền rừng bạc bể lại nắm được bí quyết này trong tay, hèn chi mà cộng đồng tỵ nạn không rã như vôi vữa gặp mưa.
4. Từ thiện, bác ái
Đây là mặt NQ36 xâm nhập mà người tỵ nạn khó đối phó nhất. Trước những thiên tai bão lụt và những khó khăn thiếu thốn của đồng bào trong nước, nếu chúng ta bỏ mặc thì chính chúng ta tự cảm thấy nhẫn tâm. Nhưng đã có quá nhiều kinh nghiệm cho thấy lòng bác ái của người tỵ nạn đã bị lợi dụng quá đáng. Có thể nói không có đồng tiền nào của chúng ta bỏ ra cứu giúp đồng bào nghèo trong nước mà không bị chia năm sẻ bẩy, đến được tay đồng bào thì ít, chui vào túi bọn cán bộ thì nhiều. Đấy là chưa kể gặp phải bọn lưu manh lấy công việc từ thiện như một nghề sinh sống. Tình trạng này vô tình biến nhiều người vốn có lòng hảo tâm trở thành ích kỷ, và bọn tay sai CS đội lốt làm từ thiện mặc sức lộng hành.
5. Văn nghệ và truyền thông
Phải nói tác hại lớn nhất mà NQ36 đưa đến là việc san bằng lằn ranh quốc cộng trong lãnh vực văn nghệ và truyền thông. Về văn nghệ, như chúng ta thấy hiện nay, ca sĩ trong nước hoàn toàn thoải mái khi ra hát tại hải ngoại, nếu không muốn nói là còn được nâng niu chiều chuộng rất mực nữa là khác. Đổi lại, ca sĩ hải ngoại về trình diễn trong nước cũng được đón tiếp niềm nở. Sự khác biệt ở chỗ là ca sĩ hải ngoại trở về hầu như không em nào không nói vài cầu bợ đỡ CS để lấy lòng. Hèn và đê tiện. Xướng ca vô loài, người xưa đánh giá không sai. Trong khi đó bọn con hát trong nước ra lại thường kênh kiệu lên mặt. Có đứa còn lớn lối đe dọa chôn sống cộng đồng tỵ nạn. Vô giáo dục. Cũng lại là xướng ca vô loài nữa. Một đứa hèn vì sợ bóng sợ gió, một đứa mất dậy với tâm lý đắc thắng cho thấy sự hiệu lực của tác dụng đồng hóa trong lãnh vực ca nhạc tới mức nào.
Đồng hóa là bước kế tiếp chủ yếu sau bước xâm nhập. Đồng hóa cũng có nghĩa là hòa hợp hòa giải (HHHG), nhưng nó gỡ bỏ được cái rào cản ý thức hệ của người Việt hải ngoại một cách tự nhiên và êm thấm hơn. Ban đầu người tỵ nạn còn chống các con hát từ trong nước ra, nhưng dần dần nhiều người đã không còn muốn chống vì ghiền giọng rên của bọn con hát trong nước đến nỗi không nghe nhớ chịu không nổi. Các trung tâm băng nhạc và các tay cai thầu văn nghệ biết rất rõ tâm lý đó nên đã mặc tình thao túng. Bọn này rất hăng hái vinh danh QLVNCH nhưng lại âm thầm làm công cụ của NQ36. VGCS không đứng ra làm công việc hòa hợp này mà để cho người tỵ nạn tự làm lấy qua trung gian các trung tâm băng nhạc và bọn cai thầu văn nghệ. Chính sách dùng người của địch để thôn tính và cai trị địch đã có từ thời Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc của Thục An Dương Vương, được gọi là “Dĩ di công di”. Hiện nay bọn Tầu cộng cũng áp dụng chính sách Dĩ di công di để xâm lăng nước ta.
Chính sách Dĩ di công di càng trở nên hiệu nghiệm khi VGCS dùng văn nghệ tỵ nạn, nói chung là nền ca nhạc thời chinh chiến để hội nhập người tỵ nạn với CS một cách rất tài tình mà ít người nhìn ra. Thật vậy, cuộc chiến đấu tự vệ của nhân dân miền Nam sở dĩ còn được lưu hương cho đến ngày nay ngoài việc nó có chính nghĩa, mà còn đặc biệt nhờ tính chất vừa bi hùng vừa lãng mạn của nó nữa. Nói chiến tranh mà lãng mạn thì có lẽ là nghịch lý. Nhưng đúng chứ không sai. Bóng dáng người lính chiến đậm nét phong sương nhưng kiêu hùng đã một thời là mơ ước của các cô gái miền Nam . Người lính chiến trở thành một thứ thần tượng trong trái tim của phần lớn thiếu nữ trẻ. Thật vậy, không có gì đẹp bằng hình ảnh một chàng trai lãng tử vừa ôm súng gác vừa làm thơ, giết địch xong là ngồi xuống viết thư tình, trong giao thông hào vẫn kể chuyện tình sử cho nhau nghe, về đến doanh trại là ba chân bốn cẳng dọt đi thăm người yêu … Trên thế gian này không có thứ lính tráng nào kiêu hùng và lãng mạn đến như thế. Và tất nhiên cũng không có cuộc chiến nào tàn khốc nhưng lại đẹp và nên thơ như thế. Nét đẹp đó chỉ tìm thấy trong cuộc chiến đấu chống CS xâm lược của nhân dân miền Nam được diễn tả qua hàng ngàn ca khúc rất mê hoặc. Những giá trị văn học nghệ thuật này đã trở thành bất tử, và sẽ còn tồn tại và lưu truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời nọ qua đời kia, thời gian chắc chắn không thể nào bôi xóa được. VGCS biết rất rõ điều đó. Chúng muốn xóa đi nhưng không xóa nổi nên đành phải thả lỏng cái thứ văn nghệ “phản động” này với ý đồ tương kế tựu kế để chinh phục người tỵ nạn. Đó là lý do tại sao có chuyện ca sĩ vẹm cũng hát nhạc lính trên những sân khấu hải ngoại, chỉ trừ những ca khúc mang tính chiến đấu cao và quá rõ rệt. Ngày nay, những ca khúc thời chinh chiến bị trộn lẫn với loại nhạc “mì ăn liền” đang thịnh hành tại hải ngoại và được biết trong nước cũng thế. Nó vừa trở thành cái cần câu cơm cho bọn con buôn văn nghệ (và cả cho lũ VGCS nữa), đồng thời còn là phương sách rất tự nhiên và hữu hiệu để đồng hóa người tỵ nạn. Hát nhạc lính để vinh danh QLVNCH thì ai bắt bẻ và chống đối được. Nhưng điều trớ trêu là người ca sĩ mới về nước hát ca tụng CS, vừa trở ra lại hát vinh danh người lính VNCH. Người quân nhân QLVNCH cần bọn thợ hát vô luân này vinh danh sao? Điều bất nhân không thể tha thứ được là có trung tâm băng nhạc của người tỵ nạn hoặc cai thầu văn nghệ đã tự ý sửa lời của một số ca khúc để được VGCS chấp nhận cho hát.
Truyền thông cũng giống như văn nghệ. Có thể nói truyền thông cũng là lãnh vực xâm nhập thành công nhất của NQ36. Rất nhiều người cho rằng VGCS đã mua được hầu hết các cơ quan truyền thông của người Việt tỵ nạn. Cũng không sai lắm. Một số chương trình phát thanh và báo chí lấy lý do chống Tầu cộng, công khai kêu gọi người tỵ nạn hòa hợp hòa giải với VGCS. Điều lo ngại này có cơ sở dựa trên hai lý do. Thứ nhất là vì cái bụng. Thực tế là rất ít có tờ báo nào hoặc đài phát thanh nào tự trang trải được chi phí nhờ vào quảng cáo. Ở Mỹ, tiền mướn đài tính theo giá Mỹ, trong khi quảng cáo tính theo giá VN. Nhân viên, biên tập viên, xướng ngôn viên thường phải sinh sống bằng nghề khác. Nhiều người làm truyền thông không lương vì yêu nghề. Thực trạng đó bắt buộc người chủ đài phải nghĩ đến chuyện kiếm tiền bằng cách khác để nuôi sống đài, và nhất là nuôi sống bản thân và gia đình. Việc họ sa vào tay bọn VGCS hay những thế lực đen tối khác là điều dễ hiểu. Người Mỹ nói đúng, kẻ nắm túi tiền, người đó điều khiển. Lý tưởng này, lý tưởng nọ đành phải gác qua một bên. Thứ hai là ỷ vào cái lá chắn tự do. Ở các nước phương Tây, nhất là tại Hoa Kỳ, tự do ngôn luận và tự do thông tin thường được coi là vô giới hạn, được luật pháp bảo vệ. Sự lạm dụng tự do quá trớn là cánh cửa lớn cho CS xâm nhập và những con buôn trong ngành truyền thông ruớc CS vào. Chúng ta thấy rất rõ nhưng đành chịu bất lực, không làm gì được.
Trên đây chỉ là một số khía cạnh trong đời sống hàng ngày của người tỵ nạn mà bọn VGCS đã thọc bàn tay vào một cách rõ rệt qua NQ36. Còn rất nhiều mặt khác chưa dám quyết đoán, nhưng đã có những dấu hiệu đáng nghi ngờ. Chắc chắn thời gian sẽ trả lời.
(còn tiếp)
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Bà Bút Vàng phát ngôn: tên Nguyễn Phương Hùng nói xấu giáo sư Vinh: ergo hắn là cộng sản. Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh phán: Tôi không nói anh (Nguyễn Phương Hùng) là CS, nhưng anh có những bài viết chứng tỏ anh là Việt gian. Còn nhà văn Chu Tất Tiến điểm mặt: Nam Nhân, Việt Thường luôn luôn đánh phá tất cả mọi người chống cộng, sure bọn này là CS. Đấy là vài ba điển hình tố cộng mà chúng tôi đọc được trên internet gần đây. Cả ba là những người có máu mặt trên báo chí, các diễn đàn, và trong cộng đồng. Những nhà chống cộng khác trong đám dân trên không chằng, dưới không rễ thì loạn trên các diễn đàn, không sao kể cho xiết. Thế nhưng, chuyện ông bà Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc, giám đốc của đài VNHN mời cán bộ tòa đại sứ VGCS tại Washington tới nhà ăn nhậu với cả đám nhân viên, bạn bè thì lại là chuyện bìn h thường, chả có con ma nào théc méc. May mà hai năm sau nhà báo Hồng Phúc mới khui ra. Giả như ông Hồng Phúc không ngứa miệng phun ra thì chuyện đã đi vào quên lãng. Các ông bà Ngô Ngọc Hùng, Dương Văn Hiệp, Lưu Lệ Ngọc vẫn nghiễm nhiên là các nhà chống cộng đầy thành tích. Chứ có ai rỗi hơi mà bới móc ra làm chi cho mệt xác, biết đâu còn mang họa vào thân. CS đặt tòa lãnh sự tại Houston , ai ai cũng nhoi nhoi phản đối. Các ông lãnh đạo chống cộng tại địa phương kêu gọi dân biểu tình trước một cái chợ. Đại thành công! Nghe đâu những 5 ngàn người. Biểu tình xong, ai về nhà nấy, thỏa mãn. Tự ái của đồng bào đã được vuốt ve: biểu tình những 5 ngàn người lận. Các nhà chống cộng lại ghi thêm được một thành tích hiển hách giữ làm credit để dùng cho sau này. Thằng CS vẫn cứ đặt tòa lãnh sự của chúng để tiện cấp chiếu khán cho đồng bào về nạp mãi lộ và du hí. Có sao đâu. Sự việc ồn lên một dạo, nhưng êm rồi. Lại đâu vào đấy: đường ta ta cứ đi, đường nó (VGCS) nó vẫn phăng phăng bước tới. Làm gì nhau đây! Chẳng lẽ đường lối hợp tác giai đoạn của nhà chống cộng Al. Hoàng với Việt Tân ép phê (effet) lẹ thế?
Hoạt cảnh chống cộng của chúng ta hiện nay đại khái là như vậy. Trước đây không có thế. Bây giờ thay đổi rồi. Người ta cho rằng đó là kết quả của Nghị Quyết 36 của VGCS. Ai tin cứ tin. Ai không tin thây kệ. Tự do mà! Dưới con mắt loạn thị của người viết thì quả thật nghị quyết 36 có vẻ đang thắng lớn. Nó thắng thế nào, thắng làm sao, và tại sao thắng, đó là những vấn đề chúng tôi muốn đem bàn đến ở đây.
Vài nét về Nghị Quyết 36
Phần lớn chúng ta có lẽ chỉ nghe nói Nghị Quyết 36 nhưng chưa thấy cái đồ quỉ này nó mặt ngang mũi dọc ra sao. Vâng, chính xác cái văn kiện này được gọi là Nghị Quyết 36/NQ-TW (Xin vắn tắt là NQ36) được Bộ CT đảng VGCS ban hành ngày 26-3-2004. Trước khi có NQ36, VGCS đã thử thời vận nhiều cách để nhử mồi người tỵ nạn ở nước ngoài. Nhiều tên trí thức ăn cơm quốc gia thờ ma CS như BS Bùi Kiện Tín ở Pháp, TS Phó Bá Long ở Canada (?) v.v. đã ra công khuyển mã giúp cho bọn VGCS, nhưng đều mang thất bại. Năm 1993, VGCS đã thử mở ra một cái gọi là Đại Hội Việt Kiều, Phó Bá Long xun xoe về tham dự có gởi kiến nghị xin VGCS bỏ chiếu khán cho Việt kiều về thăm nhà, dễ dãi việc mua nhà đất, và nhất là Long còn đề nghị VGCS ban lệnh đại xá cho tất cả mọi người bỏ nước ra đi tỵ nạn CS. Tội vạ gì mà đại xá đây, GS Long?
Cha đẻ của NQ36 là Phan Diễn. Phan Diễn đứng hàng thứ 15 trong Bộ CT đảng CS, bí thư thành ủy Đà Nẵng, một tên tham nhũng có hạng. Diễn là con Phan Thanh, cháu nội Phan Khôi. Cụ Phan Khôi là một nhà văn hóa lớn chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm chống đảng nên bị thanh trừng và bị cô lập cho đến chết. Nếu Trường Chinh đấu tố bố mẹ đẻ ra hắn không làm chúng ta ngạc nhiên, thì chúng ta cũng chẳng nên lấy làm lạ chuyện Phan Diễn hoàn toàn vô cảm đối với việc người ông của hắn bị bạc đãi và bị đầy ải cho đến khi xuống lỗ. Đó là kết quả trăm năm trồng người của tên cáo già Hồ Chí Minh. Phan Diễn không những đã dửng dưng trước việc đảng đầy đọa ông nội hắn mà còn cúc cung tận tụy phục vụ CS bằng cách cuối đời đẻ ra cái NQ36 bất nhân mà chúng tôi đang nói đây.
NQ36 gồm có 4 phần. Phần cuối cùng phân công các cơ quan có trách nhiệm thi hành nghị quyết. Các phần 1 và 2 dành tâng bốc, vuốt ve, khuyến dụ, và hứa hẹn đủ điều với cộng đồng người tỵ nạn. Qua nghị quyết, VGCS công nhận người tỵ nạn, mà chúng đổi danh xưng gọi là người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài, thành công về nhiều mặt, có tiềm lực kinh tế lớn, có tinh thần yêu nước, gắn bó với quê hương. Chúng xác nhận có một số đã trở về đầu hàng VGCS và đóng góp cho chúng. Nhưng đồng thời chúng cũng không quên cảnh cáo rằng nhiều người vẫn còn ra sức chống phá CS. Tuy thế chúng lại nói đảng và Nhà nước luôn luôn coi cộng đồng người tỵ nạn là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nên cần phải được săn sóc và giúp đỡ, nhất là trong các lãnh vực phát thanh, truyền hình và các nhu cầu về văn hóa. Chúng kêu gọi xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp tạo ra, xây dựng tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Chúng hứa hẹn nhà nước sẽ thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của cộng đồng ngưới tỵ nạn theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc tế. Chúng khuyến khích người tỵ nạn mau chóng hội nhập để làm ăn, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết, đùm bọc, thương yêu nhau, giữ mối quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa bà con sinh sống với trong nước, tùy theo khả năng và điều kiện của mỗi người, góp phần xây dựng quê hương đất nước, đặc biệt nhấn mạnh là chủ động đấu tranh với các biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung cuả dân tộc, nghĩa đúng của lối nói này là chống lại VGCS.
Phần 3 mới là chủ yếu của nghị quyết, gồm có các điểm sau đây:
1. VGCS sẽ tiến hành đàm phán và ký kết các thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lãnh sự, hiệp định tư pháp, bảo vệ lợi ích của người tỵ nạn, giải quyết các yêu cầu của người tỵ nạn liên quan đến vấn đề quốc tịch. Hứa tạo điều kiện để đồng bào tỵ nạn về thăm quê hương, thân nhân. Cụ thể hóa và hoàn thiện các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở trong nước của người tỵ nạn, thông thoáng và đơn giản hóa các thủ tục. Giải quyết nhanh chóng thủ tục cho người tỵ nạn hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước. Tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn nhân gia đình, nhận con nuôi ... liên quan đến người tỵ nạn. Dành cho người tỵ nạn giá dịch vụ như công dân trong nước.
2. Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức hải ngoại vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ đối với chuyên gia, trí thức hải ngoại có trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật trong nước. Mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng chuyên gia, trí thức hải ngoại tham gia các công việc ở trong nước, làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước ngoài.
3. Hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách thu hút người tỵ nạn hoạt động đầu tư, kinh doanh ở trong nước. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy khả năng của người tỵ nạn làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng phong trào tiêu thụ hàng hóa của VN.
4. Đổi mới và đa dạng hóa các phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích khuyến khích những hoạt động hướng về quê hương của người tỵ nạn, nhất là của thế hệ trẻ. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng người tỵ nạn, kể cả với những người mà VGCS coi là còn có định kiến, mặc cảm với chúng.
5. Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người tỵ nạn, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho người tỵ nạn, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên tỵ nạn. Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật, nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng. Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ tỵ nạn về nước biểu diễn và tham gia các đoàn VN đi biểu diễn quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn học, nghệ thuật, triển lãm, hội thảo, du lịch về cội nguồn, tức là về phục vụ cho VGCS.
6. Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện công tác thông tin, tuyên truyền để bịt mắt người tỵ nạn về tình hình đất nước và chính sách của đảng CS. Đầu tư cho các chương trình dành cho người tỵ nạn của các đài phát thanh, truyền hình và Internet. Chú trọng đổi mới nội dung, hình thức. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ người tỵ nạn. Hỗ trợ tiền bạc để vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra hải ngoại để phục vụ cộng đồng tỵ nạn.
7. Hoàn chỉnh chính sách khen thưởng đối với người tỵ nạn có công đối với CS. Đồng thời có biện pháp đấu tranh phù hợp (tức là tiêu diệt) với những người có biểu hiện cố tình đi ngược lại với VGCS.
8. Củng cố và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người tỵ nạn. Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài có trách nhiệm coi công tác đối với người tỵ nạn là một nhiệm vụ chính trị quan trọng. Chủ động tăng cường tiếp xúc, vận động, truyền bá và phổ biến chủ trương, chính sách của đảng VGCS.
9. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác đối với người tỵ nạn tại cơ quan đại diện ngoại giao của VGCS ở những nơi có đông người tỵ nạn sinh sống. Một số bộ, ngành và một số tỉnh, thành phố có quan hệ nhiều với người tỵ nạn cần có bộ phận giúp cơ quan lãnh đạo trong công tác đối với người tỵ nạn. Bổ sung kinh phí cho công tác này.
Xét về mặt thực hành, các chính sách nêu trên có tác dụng hai mặt. Một là nó tạo ra con đường cho CS xâm nhập và trà trộn vào cộng đồng hầu lũng đoạn, chinh phục, và nhuộm đỏ khối người tỵ nạn chúng ta. Và hai là nó cung cấp cho người tỵ nạn một thứ vũ khí rất lợi hại để chúng ta tự đánh đấm, chém giết nhau không cần đến bàn tay của bọn VGCS. Tác dụng gây lũng đoạn này báo chí quen gọi là “chụp mũ” hay là “đội nón cối”. Sống trong một cộng đồng chống cộng mạnh, kẻ bị đội nón cối rất khó được tín cẩn. Hậu quả thê thảm của việc đội nón cối lên đầu nhau là người ta coi nhau là kẻ thù cần phải tiêu diệt còn hơn là CS. Rất nhiều người nhân danh chống cộng để đội nón cối lên đầu người khác, mặc dầu thời đại này đối với VGCS, dép râu, nón cối là thứ trang bị cá nhân cho các cán bộ CS đã hoàn toàn lỗi thời rồi. Có thể nói đa số những người tố cáo và chụp mũ kẻ khác đều mang tinh thần phe phái và định kiến: kẻ không theo chúng tôi và hành động khác chúng tôi tất nhiên là CS. Hà mỗ này cũng đã từng là nạn nhân của việc bị úp chụp cái nón cối lên đầu, nên bây giờ cứ như con chim bị ná vậy. Ngay cái tựa đề của bài viết này chưa biết chừng cũng có thể có kẻ vin vào đó la toáng lên rằng chúng tôi ca tụng CS hoặc làm lợi cho CS. Nhưng bất chấp, chúng tôi viết trong tinh thần tự kiểm để biết mình, biết người. Thế thôi. Chúng tôi không viết theo lối xảo ngôn của một số nhà chống cộng hiện nay để lừa bịp và ru ngủ quần chúng. Có kẻ viết rằng CS đang dẫy chết. Người khác lại bảo Hànội đang hoảng lên vì đảng đang tan rã. Chừng nào thì VGCS mới dẫy chết? Nó dẫy chết nhưng nó đang sắp nuốt sống cộng đồng tỵ nạn rồi đấy. Mở banh mắt ra mà nhìn. Nó tan rã ư? Một năm có được mấy đứa phải trả thẻ đảng vì bị đào thải, so với hàng ngàn hàng vạn đứa khác đạp lên nhau để mong được vào đảng. Đó là sự thực. Hãy lương thiện với đồng bào. Hãy nói lên sự thật cho đồng bào nghe. Đừng phỉnh gạt, dấu giếm, lừa bịp, tội nghiệp đồng bào. Với một cái nhìn lương thiện thì NQ36 đang thành công lớn cả về hậu quả xâm nhập lẫn tác dụng gây phân hóa trong cộng đồng.
Hậu quả của xâm nhập
Có ai trong chúng ta còn nghi ngờ việc VGCS len lỏi xâm nhập vào hàng ngũ người tỵ nạn không? Chắc chắn là không, mặc dầu chúng ta chưa bao giờ bắt được tại trận một tên VGCS nào hết. Nhưng chúng ta tin và điều tin tưởng của chúng ta là thật, chỉ đơn giản dựa trên sự thật lịch sử là ngày xưa chúng ta có cả một chế độ vững chắc, một quân đội hùng mạnh, cùng với nhiều cơ quan an ninh dầy đặc mà còn có những tên VGCS trà trộn vào ở hẳn trong dinh Độc Lập được, thì bây giờ trong một cộng đồng phân hóa như hiện nay, VGCS đi vào sống giữa chúng ta là chuyện quá dễ dàng. Chúng có thể là du học sinh, là cán bộ đi tu nghiệp, là thương gia đi khảo sát thị trường, là người di tản buồn, là thuyền nhân, là diện ODP, diện con lai, diện bảo lãnh, thậm chí cả diện HO (lao) nữa. Nói tắt một câu, cán bộ CS len lỏi vào sống trong cộng đồng là điều không còn gì phải thắc mắc. Chúng ta không căn cứ vào đâu được để xác định tên A, tên B là VGCS. Nhưng nhìn vào một số lãnh vực sinh hoạt hàng ngày trong cộng đồng thì thấy rõ là có VGCS hiện diện giữa chúng ta thật, và ảnh hưởng của chúng đang mỗi ngày mỗi lớn dần. Sau đây chúng tôi xin nêu lên một số hiện tượng trong các lãnh vực sinh hoạt trong cộng đồng tỵ nạn chúng ta để mọi người thấy rằng VGCS đã xâm nhập vào trong cộng đồng đến mức nào rồi.
1. Làm ăn thương mại
Trước kia không người tỵ nạn nào dám hở miệng nói ra là họ có dính líu làm ăn buôn bán với CS. Nhưng bây giờ, nhiều con buôn tỵ nạn công khai giao dịch với cán bộ CS không cần giấu diếm. Chúng ngang nhiên đến dự tiệc chiêu đãi của Nguyễn Minh Triết, của Nguyễn Tấn Dũng. Chúng mời cán bộ CS về nhà ăn nhậu mà chẳng thèm sợ ai đàm tiếu. Còn hơn thế nữa, bọn cán bộ trong nước dám công khai tạo mãi các khu thương mại trên đất Mỹ ngay tại khu vực đông người tỵ nạn để chúng ta làm giầu cho chúng. Chẳng còn ai nghi ngờ về chuyện bọn mafia CS mua những cơ sở thương mại và dịch vụ tại hải ngoại để kinh doanh, hoặc do con cái của chúng đang ở ngoại quốc đứng tên, hoặc do người tỵ nạn là bà con đứng tên dùm. Có trường hợp được được nhận diện, nhưng nhiều trường hợp khác còn được giấu kín. Người tỵ nạn đem tiền về VN tiêu xài hay gởi tiền về trong nước dưới nhiều hình thức. Tiền này chui vào túi các cán bộ CS. Đồng tiền đó lại được bọn tư bản đỏ đem ra nước ngoài kinh doanh buôn bán. Đây là một chuyến đi khứ hồi của đồng dollar Mỹ. Thử hỏi xem có ai trong chúng ta coi đó là một thách đố không? VGCS kêu gọi người tỵ nạn đem tiền về đầu tư, nhưng chính chúng lại đi đầu tư ở ngước ngoài. Sự thể cho thấy là một mặt bọn VGCS không còn tin tưởng vào tương lai của chế độ, nhưng mặt khác chúng đạt được thành công trong việc biến khối người tỵ nạn thành những kẻ làm giầu cho chúng. Người tỵ nạn tự nhiên trở thành những con bò cho bọn mafia CS vắt sữa ngay trong những cái chuồng mà đồng bào tạo dựng nên. Lợi nhuận do việc đầu tư này VGCS dùng để tài trợ cho các hoạt động đánh phá người tỵ nạn, một phần chúng nuôi bọn chống cộng cò mồi ở hải ngoại. Mối nhục lớn cho cộng đồng là các nhà chống cộng của chúng ta cứ mỗi khi hoạt động lại phải ngửa tay xin tiền từ các tên VGCS hoặc những kẻ làm ăn với chúng. Nếu bỏ chút ít tiền bạc ra mướn lũ cò mồi chống cộng cho vui thì tại sao chúng không làm. Chúng có thiệt hại gì đâu. Cuộc đấu tranh chống cộng vì có lũ cò mồi đã trở thành trò hề lố bịch. Lãnh tiền của CS để chống cộng. Tiếu lâm thật, nhưng lại là thực tại muôn thuở.
2. Văn hóa, văn học
Sách báo tuyên truyền của VGCS bầy công khai trong các tiệm sách, thư viện, những nơi có đông người tỵ nạn. Các cuộc trao đổi giáo sư, sinh viên diễn ra hầu như thường xuyên giữa các đại học trong và ngoài nước. Con em người tỵ nạn về trong nước học hỏi được cái gì từ đỉnh cao trí tuệ VGCS? Hiện tượng giao lưu văn hóa qua cái gọi là hội thảo chuyên đề của các nhà trí thức trong và ngoài nước cũng đã thấy lai rai xẩy ra. Điều đáng ngạc nhiên là các nhà trí thức tại hải ngoại lại không hề nghĩ là mình đang tự chui vào cái tròng hoà hợp hòa giải của VGCS. Bằng cấp cao nhưng trí đoản của bọn school smart (mọt sách) là như thế. Thực tế đang diễn ra, đám khoa bảng thường lại là những kẻ có tinh thần chủ bại và đầu hàng trước nhất. Người bình dân về VN thăm nhà nhưng tinh thần chống cộng vẫn quyết liệt. Trái lại bọn trí thức sẵn sàng HHHG với VGCS dưới các chiêu bài mầu mè. Ai là người chịu trách nhiệm để cho các loại văn hóa phẩm và tài liệu tuyên truyền xâm nhập. Người bình dân bận làm ăn rất ít đọc sách. Tuổi trẻ trình độ Việt ngữ đủ đâu vào đâu mà đọc tiếng Việt. Vậy thì ai vào đây, ai thích đọc và ai cần đọc sách của CS?
3. Tổ chức, đoàn thể
Cán bộ CS xâm nhập để lũng đoạn, làm ung thối, và phân hóa các đoàn thể, tổ chức của người quốc gia là chuyện xưa như trái đất rồi. Trước năm 1975, CS len lỏi trà trộn vào quân đội, cảnh sát, đảng phái, báo chí, cả đến các tôn giáo bằng đủ mọi hình thức. Ngày nay cũng sách đó thôi. Không đoàn thể nào, tổ chức nào, cộng đồng nào không bị chia năm sẻ bẩy do CS và tay sai xâm nhập phá hoại. Lạ lùng thay, nhóm nào cũng có người theo, người ủng hộ. Rõ ràng là đồng bào không có khả năng phân biệt được ai là CS, ai quốc gia, ai chống cộng thiệt, ai chống cộng cuội, mà chỉ a dua theo cảm tính. Ai là kẻ đứng sau lưng để phá nát các cộng đồng, đoàn thể? Không ai cả, mà chỉ toàn thấy rặt là những nhà chống cộng rất hăng say và to tiếng. Nếu cứ tính công sức những nhà chống cộng này đổ ra cho công cuộc chống cộng thì chắc chắn bọn CS nằm vùng đã không còn đất sống, thậm chí cái chế độ của chúng ở trong nước cũng đã bị tiêu ma lâu rồi. Nhưng kết quả ngược lại, CS càng ngày càng xâm nhập sâu hơn vào các cộng đồng đủ mọi ngành nghề, mọi sinh hoạt, và càng ngày chúng càng tung hoành trắng trợn hơn, mọi người đều thấy nhưng không làm gì được, bởi vì có nhiều người theo chúng. Người nặng đầu óc mê tín thì cho rằng NQ36 là một thứ bùa ngải rất linh. Nó có sức trấn áp mọi phương pháp chống lại nó. Nhưng người không tin vào bùa ngải quyết đoán rằng không có bùa ngải gì cả, chẳng qua là tại bọn VGCS học mót cái bí quyết quốc truyền của tổ phụ Washington của nước Mỹ thôi. Bí quyết này đã được chứng minh là cực kỳ hiệu nghiệm. Nó có thể đạp đổ những thần tượng cao ngạo nhất. Nó ngồi một chỗ mà với tay ra tận ngàn dặm giết chết lãnh tụ của một nước khác dễ như chơi. Nó còn có khả năng như một nhà ảo thuật đại tài, làm biến mất một quốc gia khỏi bản đồ thế giới. VGCS có tiền rừng bạc bể lại nắm được bí quyết này trong tay, hèn chi mà cộng đồng tỵ nạn không rã như vôi vữa gặp mưa.
4. Từ thiện, bác ái
Đây là mặt NQ36 xâm nhập mà người tỵ nạn khó đối phó nhất. Trước những thiên tai bão lụt và những khó khăn thiếu thốn của đồng bào trong nước, nếu chúng ta bỏ mặc thì chính chúng ta tự cảm thấy nhẫn tâm. Nhưng đã có quá nhiều kinh nghiệm cho thấy lòng bác ái của người tỵ nạn đã bị lợi dụng quá đáng. Có thể nói không có đồng tiền nào của chúng ta bỏ ra cứu giúp đồng bào nghèo trong nước mà không bị chia năm sẻ bẩy, đến được tay đồng bào thì ít, chui vào túi bọn cán bộ thì nhiều. Đấy là chưa kể gặp phải bọn lưu manh lấy công việc từ thiện như một nghề sinh sống. Tình trạng này vô tình biến nhiều người vốn có lòng hảo tâm trở thành ích kỷ, và bọn tay sai CS đội lốt làm từ thiện mặc sức lộng hành.
5. Văn nghệ và truyền thông
Phải nói tác hại lớn nhất mà NQ36 đưa đến là việc san bằng lằn ranh quốc cộng trong lãnh vực văn nghệ và truyền thông. Về văn nghệ, như chúng ta thấy hiện nay, ca sĩ trong nước hoàn toàn thoải mái khi ra hát tại hải ngoại, nếu không muốn nói là còn được nâng niu chiều chuộng rất mực nữa là khác. Đổi lại, ca sĩ hải ngoại về trình diễn trong nước cũng được đón tiếp niềm nở. Sự khác biệt ở chỗ là ca sĩ hải ngoại trở về hầu như không em nào không nói vài cầu bợ đỡ CS để lấy lòng. Hèn và đê tiện. Xướng ca vô loài, người xưa đánh giá không sai. Trong khi đó bọn con hát trong nước ra lại thường kênh kiệu lên mặt. Có đứa còn lớn lối đe dọa chôn sống cộng đồng tỵ nạn. Vô giáo dục. Cũng lại là xướng ca vô loài nữa. Một đứa hèn vì sợ bóng sợ gió, một đứa mất dậy với tâm lý đắc thắng cho thấy sự hiệu lực của tác dụng đồng hóa trong lãnh vực ca nhạc tới mức nào.
Đồng hóa là bước kế tiếp chủ yếu sau bước xâm nhập. Đồng hóa cũng có nghĩa là hòa hợp hòa giải (HHHG), nhưng nó gỡ bỏ được cái rào cản ý thức hệ của người Việt hải ngoại một cách tự nhiên và êm thấm hơn. Ban đầu người tỵ nạn còn chống các con hát từ trong nước ra, nhưng dần dần nhiều người đã không còn muốn chống vì ghiền giọng rên của bọn con hát trong nước đến nỗi không nghe nhớ chịu không nổi. Các trung tâm băng nhạc và các tay cai thầu văn nghệ biết rất rõ tâm lý đó nên đã mặc tình thao túng. Bọn này rất hăng hái vinh danh QLVNCH nhưng lại âm thầm làm công cụ của NQ36. VGCS không đứng ra làm công việc hòa hợp này mà để cho người tỵ nạn tự làm lấy qua trung gian các trung tâm băng nhạc và bọn cai thầu văn nghệ. Chính sách dùng người của địch để thôn tính và cai trị địch đã có từ thời Triệu Đà xâm lăng Âu Lạc của Thục An Dương Vương, được gọi là “Dĩ di công di”. Hiện nay bọn Tầu cộng cũng áp dụng chính sách Dĩ di công di để xâm lăng nước ta.
Chính sách Dĩ di công di càng trở nên hiệu nghiệm khi VGCS dùng văn nghệ tỵ nạn, nói chung là nền ca nhạc thời chinh chiến để hội nhập người tỵ nạn với CS một cách rất tài tình mà ít người nhìn ra. Thật vậy, cuộc chiến đấu tự vệ của nhân dân miền Nam sở dĩ còn được lưu hương cho đến ngày nay ngoài việc nó có chính nghĩa, mà còn đặc biệt nhờ tính chất vừa bi hùng vừa lãng mạn của nó nữa. Nói chiến tranh mà lãng mạn thì có lẽ là nghịch lý. Nhưng đúng chứ không sai. Bóng dáng người lính chiến đậm nét phong sương nhưng kiêu hùng đã một thời là mơ ước của các cô gái miền Nam . Người lính chiến trở thành một thứ thần tượng trong trái tim của phần lớn thiếu nữ trẻ. Thật vậy, không có gì đẹp bằng hình ảnh một chàng trai lãng tử vừa ôm súng gác vừa làm thơ, giết địch xong là ngồi xuống viết thư tình, trong giao thông hào vẫn kể chuyện tình sử cho nhau nghe, về đến doanh trại là ba chân bốn cẳng dọt đi thăm người yêu … Trên thế gian này không có thứ lính tráng nào kiêu hùng và lãng mạn đến như thế. Và tất nhiên cũng không có cuộc chiến nào tàn khốc nhưng lại đẹp và nên thơ như thế. Nét đẹp đó chỉ tìm thấy trong cuộc chiến đấu chống CS xâm lược của nhân dân miền Nam được diễn tả qua hàng ngàn ca khúc rất mê hoặc. Những giá trị văn học nghệ thuật này đã trở thành bất tử, và sẽ còn tồn tại và lưu truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác, từ đời nọ qua đời kia, thời gian chắc chắn không thể nào bôi xóa được. VGCS biết rất rõ điều đó. Chúng muốn xóa đi nhưng không xóa nổi nên đành phải thả lỏng cái thứ văn nghệ “phản động” này với ý đồ tương kế tựu kế để chinh phục người tỵ nạn. Đó là lý do tại sao có chuyện ca sĩ vẹm cũng hát nhạc lính trên những sân khấu hải ngoại, chỉ trừ những ca khúc mang tính chiến đấu cao và quá rõ rệt. Ngày nay, những ca khúc thời chinh chiến bị trộn lẫn với loại nhạc “mì ăn liền” đang thịnh hành tại hải ngoại và được biết trong nước cũng thế. Nó vừa trở thành cái cần câu cơm cho bọn con buôn văn nghệ (và cả cho lũ VGCS nữa), đồng thời còn là phương sách rất tự nhiên và hữu hiệu để đồng hóa người tỵ nạn. Hát nhạc lính để vinh danh QLVNCH thì ai bắt bẻ và chống đối được. Nhưng điều trớ trêu là người ca sĩ mới về nước hát ca tụng CS, vừa trở ra lại hát vinh danh người lính VNCH. Người quân nhân QLVNCH cần bọn thợ hát vô luân này vinh danh sao? Điều bất nhân không thể tha thứ được là có trung tâm băng nhạc của người tỵ nạn hoặc cai thầu văn nghệ đã tự ý sửa lời của một số ca khúc để được VGCS chấp nhận cho hát.
Truyền thông cũng giống như văn nghệ. Có thể nói truyền thông cũng là lãnh vực xâm nhập thành công nhất của NQ36. Rất nhiều người cho rằng VGCS đã mua được hầu hết các cơ quan truyền thông của người Việt tỵ nạn. Cũng không sai lắm. Một số chương trình phát thanh và báo chí lấy lý do chống Tầu cộng, công khai kêu gọi người tỵ nạn hòa hợp hòa giải với VGCS. Điều lo ngại này có cơ sở dựa trên hai lý do. Thứ nhất là vì cái bụng. Thực tế là rất ít có tờ báo nào hoặc đài phát thanh nào tự trang trải được chi phí nhờ vào quảng cáo. Ở Mỹ, tiền mướn đài tính theo giá Mỹ, trong khi quảng cáo tính theo giá VN. Nhân viên, biên tập viên, xướng ngôn viên thường phải sinh sống bằng nghề khác. Nhiều người làm truyền thông không lương vì yêu nghề. Thực trạng đó bắt buộc người chủ đài phải nghĩ đến chuyện kiếm tiền bằng cách khác để nuôi sống đài, và nhất là nuôi sống bản thân và gia đình. Việc họ sa vào tay bọn VGCS hay những thế lực đen tối khác là điều dễ hiểu. Người Mỹ nói đúng, kẻ nắm túi tiền, người đó điều khiển. Lý tưởng này, lý tưởng nọ đành phải gác qua một bên. Thứ hai là ỷ vào cái lá chắn tự do. Ở các nước phương Tây, nhất là tại Hoa Kỳ, tự do ngôn luận và tự do thông tin thường được coi là vô giới hạn, được luật pháp bảo vệ. Sự lạm dụng tự do quá trớn là cánh cửa lớn cho CS xâm nhập và những con buôn trong ngành truyền thông ruớc CS vào. Chúng ta thấy rất rõ nhưng đành chịu bất lực, không làm gì được.
Trên đây chỉ là một số khía cạnh trong đời sống hàng ngày của người tỵ nạn mà bọn VGCS đã thọc bàn tay vào một cách rõ rệt qua NQ36. Còn rất nhiều mặt khác chưa dám quyết đoán, nhưng đã có những dấu hiệu đáng nghi ngờ. Chắc chắn thời gian sẽ trả lời.
(còn tiếp)
Subscribe to:
Posts (Atom)
Blog Archive
-
▼
2009
(183)
-
▼
November
(6)
- Đằng Sau Vụ Cảnh Sát Sanjose Hành Hung Du Sinh Hồ ...
- NGHỊ QUYẾT 36 THẮNG LỚN(tiếp theo và hết)Duyên-Lãn...
- OTTAWA KỶ NIỆM 20 NĂM SỤP ĐỔ BỨC TƯỜNG BÁ LINH VÀ ...
- NHỮNG KẺ PHẢN BỘI TRONG GIỚI TRUYỀN THÔNG .Đoàn T...
- Đừng Coi Thường Các Dấu Hiệu Báo Trước.Đỗ Văn Phúc...
- NGHỊ QUYẾT 36 THẮNG LỚNDuyên-Lãng Hà Tiến NhấtBà B...
-
▼
November
(6)