Đôi đũa trông đơn giản nhưng ẩn chứa nhiều nội hàm văn hóa
Đôi đũa là vật dùng thân thuộc không thể thiếu trong cuộc sống của người dân Á Đông, đũa là một loại hình văn hóa được cha ông xưa truyền lại.
Đũa là vật bất ly thân trong cuộc sống của người dân Á Đông. Khi trẻ bắt đầu tập ăn, cha mẹ đã dạy chúng cách sử dụng đũa để ăn, vì vậy trẻ biết sử dụng đũa rất thành thục. Có một số người cầm đũa lại không chuẩn lắm vì nhiều lý do khác nhau. Thực ra, đũa là một nét văn hóa do người xưa truyền lại.
Phong cách và nội hàm chế tác đũa truyền thống
Chiều dài của chiếc đũa là bảy tấc sáu phân, đại biểu cho thất tình lục dục của con người. Với chiều dài khoảng 24 cm, là độ dài vừa phải thuận tiện cho việc tự tay chọn món hoặc gắp món cho khách và con trẻ.
Đôi đũa bao gồm hai chiếc đũa, thể hiện âm dương phối hợp, hai chiếc hòa làm một, thiếu một chiếc là không được. Đũa có một đầu hình tròn và đầu kia hình vuông, chính là tượng trưng cho Trời tròn và Đất vuông. Điều này trùng khớp với nhận thức về thế giới của người Á Đông cổ đại.
Hình thức phổ biến nhất của đũa là: đầu đũa dùng để gắp thức ăn, đưa cơm vào miệng là hình tròn, ý nghĩa là đại biểu cho Trời; đầu kia được cầm bằng lòng bàn tay có hình vuông, tượng trưng cho Đất. Đũa bao hàm cả ý nghĩa Trời tròn và Đất vuông. Việc dùng đũa ăn cơm, biểu thị cho thấy con người có đồ ăn là nhờ ân điển của đất trời.
Mặc dù đưa thức ăn và cơm vào miệng là dựa vào đầu đũa đại biểu cho Trời, nhưng phía đầu đũa đại biểu cho Đất lại cần chính con người cầm nắm và kiểm soát tốt. Nếu không nắm chắc, đũa sẽ rơi xuống đất, nội hàm này rất sâu xa và đều đang nhắc nhở chúng ta mỗi ngày.
Con người cần hiểu rõ một đạo lý rằng: chỉ khi nhìn được Thiên thời, địa lợi, nắm bắt thời cơ canh tác thì mới có thể có thu hoạch.
Chỉ cần kính Thiên, phù hợp với Thiên thời thì không lo không có ăn
Có cơm ăn cần biết kính Trời, phù hợp với Thiên thời
Khi ăn, người ta sẽ thấy rằng khi dùng đũa gắp cơm, cần mở miệng đưa đến mép bát cơm cho vừa với phía đầu đũa tượng trưng cho ‘Trời’, thì sẽ dễ dàng đưa được thức ăn trong bát vào miệng. Thậm chí ngay cả nhắm mắt và cơm, ta cũng không phải lo lắng về việc rơi vãi cơm ra sàn. Điều này cũng là lời nhắc nhở mọi người nên phù hợp với Thiên thời, không nên đi ngược với Thiên thời, chỉ cần kính Trời, thuận với Thiên thời, việc có cơm ăn không thành vấn đề.
Có người bất kính với Trời, mở miệng là oán trách Trời không chiều theo ý mình. Điều này cũng giống như khi ăn cơm, há miệng ra mải nói chuyện không muốn thuận theo đầu đũa đại biểu cho ‘Trời’ mà và cơm vào miệng, cuối cùng sẽ bỏ lỡ cơ hội. Có thể khi tất cả mọi người đã ăn no, thì người này khi dừng nói mới phát hiện ra trên bàn đã không còn gì để ăn nữa.
Giai thoại về đôi đũa
Đũa có nhiều tên gọi, được gọi là “Hiệp” (挾) vào thời Tiên Tần, “Trợ” (箸) vào thời nhà Thương, “Trợ” (箸) hoặc “Trợ” (筯) thời Tùy Đường, thời nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh thì đều gọi là “Trợ” (箸). Trong đó, từ thời nhà Minh trở đi, do từ “Trợ” (箸) và “Trụ” (住)” (ở, cư trú) đồng âm, nên đã đổi “Trợ” thành “Khoái tử” (筷子)
Từ xưa đã có rất nhiều giai thoại về đôi đũa, chẳng hạn như:
· Trong “Nho Lâm ngoại sử”, Phạm Tiến sau khi thi đỗ không lâu thì chịu tang mẹ. Ông đều không dùng đũa dát bạc và đũa ngà mà dùng đũa tre trắng để biểu thị lòng hiếu thảo.
· Đũa bạc được dùng phổ biến trong hoàng thất, mục đích để nhận biết thức ăn có độc hay không.
· Trước đây, trong dân gian, khi gả con gái, phải có đôi đũa là một trong những của hồi môn, mang ý nghĩa “sớm sinh quý tử”.
· Sau khi một người chết, đũa là thứ không thể thiếu trong món đồ chôn theo người chết, tương truyền rằng các vong linh ở âm gian phải dùng đũa ăn cơm.
· Trương Lương dùng đũa làm hình tượng diễn giải chiến lược ông định ra cho Lưu Bang tiêu diệt Hạng Vũ.
· Hàn Ngưng Lễ từng dùng đũa để đoán sự thành bại của Đường Huyền Tông trong việc bình định cuộc nội loạn.
· Lưu Bị cố ý đánh rơi đũa để chứng tỏ mình bất tài, nhát gan trước Tào Tháo.
· Đường Huyền Tông từng tặng đũa cho Tể tướng Tống Nhâm Cảnh để khen ngợi tính tình cương trực như đũa của ông.
Đôi đũa đã trải qua ba nghìn năm dài lịch sử và được lưu truyền cho đến ngày nay, và trong dân gian cũng có rất nhiều các nghi thức và kiêng kỵ đặc biệt đối với việc dùng đũa
Lễ nghi và những điều cấm kỵ
Đôi đũa đã trải qua ba nghìn năm dài lịch sử và được lưu truyền cho đến ngày nay, và trong dân gian cũng có rất nhiều các nghi thức và kiêng kỵ đặc biệt đối với dùng đũa. Ví dụ, đôi đũa sẽ được coi là vật cát tường và xuất hiện trong lễ cưới, đôi đũa là biểu thị những điềm lành như có đôi có lứa, nhanh sinh quý tử, hạnh phúc, chung sống hòa thuận.
Việc sử dụng đũa cũng có nhiều quy tắc, chẳng hạn như :
· Không được dùng đũa gõ vào mâm chén, dân gian có câu “gõ bát đũa xin ăn cả đời”, nghĩa là “bần cùng”.
· Khi dùng đũa ăn cơm, không được dùng tay chỉ vào người khác, không khác gì với việc chỉ trích người khác. Điều này cũng giống như chửi mắng người, và không được phép. Khi ăn dùng đũa chỉ vào người khác cũng là hành vi bất lịch sự.
· Việc dùng miệng ngậm đũa khi ăn là không nên.
· Lấy đũa gắp món ăn, chọn lựa món mình thích, là biểu hiện điển hình của sự thiếu tu dưỡng, cực kỳ gây phản cảm.
· Hãy cẩn thận khi dùng đũa gắp món ăn, không nên gắp quá nhiều một lúc. Nếu gắp quá nhiều, sẽ dễ bị rơi thức ăn vào các món ăn khác hoặc rơi lên bàn ăn. Đây bị coi là hành vi thất lễ nghiêm trọng.
· Không quay ngược đầu đũa khi ăn vì sẽ gây cho người ta cảm giác người này giống như kẻ đói quá cắm cổ vào ăn, không để ý đến mọi thứ xung quanh.
· Kỵ huý việc khi ăn dùng một chiếc đũa hoặc 2 chiếc đũa làm thành một để chọc vào các món ăn trên mâm. Hành vi này được coi là một sự sỉ nhục đối với những người ăn cùng bàn.
· Trong bữa ăn, không được đặt trên bàn các loại đũa có độ dài ngắn khác nhau. Điều này rất đen đủi, có ngụ ý là “chết chóc”.
Minh An
Theo Sound of Hope
Thưa các bác, nếu không lầm, trở đầu đũa khi gắp thức ăn là người Bắc thường làm.
Đôi đũa
Đôi đũa xuất phát từ dân tộc nào ? Nhiều người nói là từ người Tàu. Tuy nhiên nhìn và tra cứu kỹ văn minh Tàu, thấy người Huê-Hạ xưa là du mục, ẩm thực thiên về lúa mì tức là xay ra bột làm bánh rồi bốc tay mà ăn.
Trong văn minh nhân loại, với cái muỗng, nĩa dao của Tây, thói ăn bốc của Ấn-Độ thì đôi đũa của Á Châu nhìn rất hay, quý phái và điệu nghệ.
Đũa không thể thiếu trong bữa ăn của dân Á, trong tiệc tùng quan-hôn-tang-tế, đặc biệt ăn món nước như hủ-tíu, mỳ thì phải xài đũa, dân Ý xưa chôm mì của Tàu nhưng lại ăn nĩa. Trong cuốn “L'histoire culturelle de la Chine” nói người Tàu thời tiên Tần (trước Tần-Thỉ-Hoàng) vẫn còn ăn bốc. Riêng dân Tàu Huê Bắc ăn bốc là một thói quen truyền thống.
Chỉ có các dân tộc Bách-Việt phía Nam cấy lúa , nấu cơm ăn thì phải xài đũa, và vô miệng, cây tre ở xứ Nam đã cho ra đôi đũa tre huyền thoại. Tàu bắt chước mà ra... Hồi xưa khi Tây mới qua họ nhìn người Á như là làm xiếc với đôi đũa, Tây, đầm cũng bắt chước làm nhưng không được.
Đũa một cặp thể hiện âm-dương, đực-cái trong văn hoá.
“Đôi ta như đũa trong kho,
Không tề, không tiện, không so cũng bằng”.
Dân gian gọi những thứ tréo ngoe, ví như vợ cao - chồng lùn là “đôi đũa lệch “, kêu người nghèo mà dụ vợ chồng giàu là “đũa mốc mà trèo mâm son”....
“Đũa vàng dộng xuống mâm son
Thấy ai có ngãi, anh thương mặn nồng”.
Đôi đũa hình thành ra quy tắc xử sự trong văn hóa ẩm thực. Dâu về nhà chồng khi dọn cơm phải đặt đũa ngay thẳng, đầu đũa phải bằng, không được để lệch cao thấp, không được lộn ngược đầu hai chiếc đũa. Và khi ăn phải chờ người lớn tuổi cầm đũa trước.
Người Nam-Kỳ nói riêng và người Việt-Nam nói chung kỵ những cái sau trong bữa ăn :
- Cắm đũa thẳng đứng trên chén cơm vì cái này chỉ để cúng người đã chết.
- Không trở đũa để chỉ vào người. Cái này là mất dạy, vô phép.
- Không dùng đũa gõ chén, gõ tô. Gõ là kêu ma về, cũng mất lịch sự.
- Không xài đũa của mình đang ăn gắp và nhúng trong tô canh lớn xài chung. Phải trở đầu đũa hoặc tốt nhứt lấy đũa khác mà gắp.
- Không dùng đũa mình đang ăn gắp thức ăn cho người khác.
- Khi gắp đồ ăn, tránh đụng đũa kêu chan chát .
- Không dùng đủa để xỉa đồ ăn như nĩa.
- Hồi nhỏ mà lấy đũa làm đồ chơi thí dụ như chơi banh đũa là bị rầy chết, vì như dậy là trù gia đình tàn mạt.
Rồi khi cúng cũng có nguyên tắc, phải đặt đũa ngay ngắn ở mặt bàn sát bên cái chén, không được đặt trên cái chén. Nhưng ngày nay làm cũng tùm lum...
Tây ăn thì múc riêng ra cho từng người trong dĩa của họ, nhưng An-Nam ta có thói quen ăn chung mâm, uống chung ly rượu mới “thân tình”. Thành ra chuyện đũa của chủ nhà gắp đồ ăn cho khách lùm lum khó tránh. Tây nó viết rằng một tô canh của An- Nam có hàng chục đôi đũa nhúng vô, thành ra về nhà bên vợ thằng rể Tây không dám ăn.
Và thành ngữ động từ “trả đũa” là đáp trả lại, trả thù lại, ăn miếng trả miếng cho sòng phẳng, đã nư hả giận, câu “trả đũa” xuất xứ từ một nghi lễ cưới thời xưa, khi coi vợ thì đưa chén đũa làm tin, sau không thuận thì trao trả lại.
Petrus Tran - Sử Nước Nam.
No comments:
Post a Comment