Wednesday, October 16, 2024

Cạm bẫy Tình Yêu (A Trap of Love)

Cạm bẫy Tình Yêu (A Trap of Love)

Phó Tế Nguyễn Mạnh San

Tôn Giáo, Luật Pháp và Tình Yêu con người để so sánh với Xã Hội Chủ Nghĩa Độc Tài Cộng Sản

Đã là loài người hay ngay cả loài vật được Thượng Đế hay Thiên Chúa tạo dựng trên trái đất này, đều ban cho loài người hay cho loài vật một trí óc biết yêu thương lẫn nhau, con người với con người, loài vật với loài vật hoặc con người với loài vật hay ngược lại loài vật với con người đều biết thương yêu nhau; ngoại trừ người cộng sản vô thần được tẩy não trí tuệ và được giáo dục từ lúc còn là những trẻ thơ vô tội, để sau này khi các em bé khôn lớn, các em chỉ biết yêu mến đảng trên hết mọi sự và được rèn luyện ý chí sắt đá là phục vụ cho một thể chế xã hội chủ nghĩa độc tài đảng trị.

Để nói có sách mách có chứng, nếu ai có người nhà hay bà con xa gần với những cựu tù nhân chính trị cộng sản hay còn được gọi biệt danh là cựu tù nhân HO, xin cứ hỏi các quý vị này, thì sẽ hiểu rõ thêm thế nào là người cộng sản và chỉ có người cộng sản là những đứa con yêu quý nhất đời của Bác Hồ mến yêu trên khắp đất nước Việt Nam hiện nay.

Mục đích chính yếu nội dung bài viết này, chúng tôi chỉ muốn trình bầy về tình yêu trai gái của người quốc gia, có lương tâm, có lòng nhân ái, có tình người, không phân biệt tôn giáo hay giai cấp trong một xã hội tự do dân chủ, và mọi người đều tin có Thượng Đế hay Thiên Chúa là đấng tối cao tạo dựng nên con người và vạn vật, để cho mọi người sống trong một xã hội loài người, biết thương yêu nhau, biết kính trọng nhau, biết điều nào thiện nên làm, biết điều nào ác nên tránh, nhưng vì sự tham lam và ích kỷ của thiểu số người vô lương tâm, sau khi thành vợ thành chồng, một bên thật tình yêu thương, còn một bên chỉ muốn lừa dối tình cảm, lợi dụng tình yêu chân thật của người yêu thương mình, kết quả đưa đến tình yêu tan vỡ, một bên trong hối hận, vì đã lỡ yêu lầm người và một bên hận thù vì lòng tham lam và sự ích kỷ của mình chưa đạt được sự thỏa mãn tối đa, không đáp ứng đầy đủ cho lòng vị kỷ mong đợi của mình, như câu chuyện tình yêu của một bên đáng thương tâm và một bên đáng bị khinh bỉ dưới đây.

Một nữ tu nhập Nhà Dòng tu từ lúc mới 15 tuổi và chị nữ tu này đã khấn trọn đời (taking her eternal vow) cho tới khi chị 24 tuổi. Chị nữ tu này là một người rất thông minh, tài giỏi lại có nhan sắc, tính tình hiền hòa, giọng nói dịu dàng ngọt ngào, nên bất cứ ai già, trẻ, lớn, bé nếu có dịp tiếp xúc với chị, đều rất quý mến chị, coi chị như người thân thương trong gia đình. Sau khi chị học xong bậc trung học, Mẹ Bề Trên Nhà Dòng gửi chị đi du học tại Hoa Kỳ và sau khi chị học xong 4 năm tại một đại học danh tiếng ở Hoa Kỳ, chị thi đậu ưu hạng văn bằng Cử Nhân Xã Hội Học (Bachelor of Arts in Sociology) và nhà trường thấy chị học giỏi nên cấp cho chị học bổng toàn phần, mà chị chỉ cần học thêm 2 năm nữa để lấy văn bằng Cao Học Xã Hội Học (Master of Arts in Sociology).

Sau khi đã tốt nghiệp bằng Cao Học, chị quay trở về nước để phục vụ cho Nhà Dòng và những năm sau này chị được Mẹ Bề Trên tin cậy, trao cho chị nhiệm vụ tối quan trọng là làm kinh tài cho Nhà Dòng. Như đã nói trên đây, chị là một nữ tu tài giỏi, vừa có nhan sắc lại vừa có khoa ăn nói trước công chúng, nên Nhà Dòng đề cử chị sang Hoa Kỳ mỗi năm ít nhất 2 lần, để quyên tiền về cho Nhà Dòng có đủ lợi tức tiếp tục nuôi dưỡng các em nữ đệ tử tại Việt Nam và lần nào chị đi lạc quyên, đều đem về kết quả thành công mỹ mãn cho Nhà Dòng.

Nhưng lần này, chị sang Hoa Kỳ cách đây khoảng hơn 2 năm, cũng với mục đích lạc quyên gây quỹ cho Nhà Dòng như mọi lần, thì chẳng may có một biến chuyển được coi là điều bất hạnh to tát nhất, như một trái bom khủng bố nổ tung trong Nhà Dòng và làm cho sự tin cậy của Nhà Dòng hoàn toàn phó thác trách nhiệm từ bao nhiêu năm trước đây cho chị, Mẹ Bề Trên đành phải chấm dứt nhiệm vụ của chị, cùng lúc uy tín cá nhân của chị cũng tan thành mây khói, không những đối với tất cả các nữ tu trong Nhà Dòng, mà còn đối cả với những người bạn bè thân thuộc từng hâm mộ tài năng của chị nữa; chỉ vì lần này chị sang Hoa Kỳ, chẳng khác gì như con nai vàng ngơ ngác, bị rơi vào cạm bẫy tình yêu lần đầu chị mới biết yêu và cũng là lần cuối chị bị tan nát cõi lòng trinh trắng, vướng mắc bụi đời ô uế trần tục, mà đã biết bao nhiêu năm chị được coi là đóa hoa trinh nữ hương thơm ngát, nay chỉ còn là bông hoa lòng tàn tạ theo tháng ngày.

Ngay lập tức, chị quyết định phải xa lánh tình yêu gian dối này bằng mọi cách mọi giá, trong những ngày còn lại của cuộc đời chị trên thế gian đen bạc này và đây cùng là lần cuối duy nhất chị cương quyết sẽ tiếp tục cuộc sống tu trì ngoài đời hay vào tu trong bất cứ Dòng nữ tu nào nhận chị, vì chị tiên đoán rằng, không thể nào chị được phép quay trở về lại Nhà Dòng cũ của chị trước đây nữa, mà chị đã hết lòng trân quý, ôm ấp trong lòng chị mấy chục năm qua, để nay tự mình bị tình yêu trai gái cám dỗ, bội ước lời thề dâng mình cho Chúa, nên chị phải ôm lấy vết thương lòng sầu tủi, trong niềm ân hận vô biên, biết đến bao giờ mới có thể hồi phục lại được tâm hồn bình an và niềm hạnh phúc tràn trề trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa như trước đây, mà chị đã trải qua liên tục nhiều năm tháng dài, khi chị còn là nữ tu trong Nhà Dòng ở Việt Nam.

Người ta thường nói: Ma đưa lối quỷ đưa đường, cứ tìm những nỗi đoạn trường mà đi.

Nhưng thực ra câu nói này hoàn toàn không thể đem áp dụng vào hoàn cảnh của chị được. Vì trong tất cả những lần chị sang Hoa Kỳ, để thực thi công tác do Mẹ Bề Trên Nhà Dòng giao phó cho chị, như đã kể trên đây, chị luôn luôn hoàn thành công tác hết sức tốt đẹp, trong nhiệm vụ kinh tài đã được Nhà Dòng tin cậy giao phó trong bao nhiêu năm qua. Chị hồi tưởng lại, cứ mỗi lần chị sang Hoa Kỳ gây quỹ cho Nhà Dòng, đều có sẵn một số các anh chị em tình nguyện viên cho Nhà Dòng tại từng địa phương, sẵn sàng đứng ra tổ chức các buổi họp mặt bà con bạn bè đến nghe chị thuyết trình, về mục đích chính của buổi gây quỹ tài chánh cho Nhà Dòng ngày.

Nhờ vào tài ăn nói hoạt bát và giọng nói ngọt ngào dễ thương của chị, nên mỗi lần hội họp các bà con cô bác đến nghe chị thuyết trình, đều quy tụ được rất đông người đến tham dự; còn về phương tiện giúp chị di chuyển từ nơi tạm trú của chị, cho đến nơi chị thuyết trình hoặc ngược lại, thì cứ mỗi lần như thế, ít nhất có từ hai cho đến ba người tình nguyện ngồi chung một xe đến đưa đón chị. Nên mọi chuyện đều êm xuôi tốt đẹp, không hề có chuyện gì dính líu đến vấn đề tình cảm đáng tiếc xảy ra cho chị.

Nhưng riêng lần này, trong số những tham dự viên, chị được Ban Tổ Chức buổi họp giới thiệu với chị một người đàn ông tên Thương, chạc 60 tuổi còn độc thân, ăn nói rất lịch thiệp, tỏ ra ông thuộc hàng trí thức. ông cho chị biết ông quen rất nhiều thương gia ở địa phương này và để chứng tỏ những lời ông nói với chị là đúng sự thật, ít ngày sau ông tình nguyện lái xe đến đón chị để giới thiệu cho chị gặp vài vị thương gia quen biết ông và nhận thấy chị làm việc bác ái cho một Dòng Nữ Tu ở Việt Nam, nên họ sẵn lòng ủng hộ chương trình gây quỹ tài chánh của chị cho Nhà Dòng, bằng cách cùng nhau hợp tác, gom góp tiền bạc theo thiện chí và khả năng tài chánh của mỗi người, hàng năm gửi tặng cho Nhà Dòng một số tiền khá lớn, được Nhà Dòng tri ân là những vị mạnh thường quân thường trực của Nhà Dòng.

Vì thế, đã nhiều lần ông lái xe một mình đến đưa đón chị đi giới thiệu với bạn bè của ông, để xin ủng hộ tài chánh cho Nhà Dòng đều không có chuyện gì khác thường xẩy ra hết, nên chị không thắc mắc lo lắng cho bản thân chị đi một mình trên xe với ông. Rồi một lần ông đến đón chị với mục đích đưa chị đi quyên tiền như mọi lần, nhưng lần này ông lợi dụng thời cơ chỉ có 2 người trong xe, ông liền ngỏ lời yêu thương chị và rất ước ao được cưới chị làm vợ, vì nhiều năm nay ông không tìm thấy ai hợp tính tình với ông như chị, nhất là chị vừa đẹp cả người lẫn nết mà lại có trình độ văn hóa cao, đó là mẫu người lý tưởng mà ông đã cố công tìm kiếm nhiều năm không thấy ai như chị, để xe duyên kết tóc với ông thành vợ chồng, thì nay chị bất thình lình xuất hiện trước mặt ông, làm cho cuộc đời ông cảm thấy sung sướng như chết đi sống lại.

Người ta thường nói: Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, quả thật đúng như thế. Chị nữ tu này sinh sống mấy chục năm trong Nhà Dòng, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện chung hàng ngày hàng đêm với các nữ tu trong Dòng, xin cho các nữ tu giữ vững niềm tin cậy vào Thiên Chúa và biết yêu thương người nghèo khổ, săn sóc người bệnh tật.

Do đó trong đời chị nay đã gần 40 tuổi đầu, chưa bao giờ chị để ý hay nghe bên tai thỏ thẻ những lời êm ái, ngọt ngào, thắm thiết tình tứ của một người nam, tỏ bày tình yêu với chị như thế này bao giờ đâu. Đúng là tiếng sét ái tình đầu tiên đánh trúng vào con tim của chị, tiếng nói yêu thương dịu ngọt phát ra từ con người bằng da bằng thịt mang tên Thương lần đầu tiên trong đời chị, làm chị quá bất ngờ xúc động, không sao cưỡng lại được những lời yêu đương của ông, đang thì thầm bên tai chị.

Nhưng chị đâu có biết rằng, ông Thương là người đã từng trải, lặn lội trong bể tình ái nhiều lần và đã làm đau khổ cho một số cô gái yêu ông. Vậy biết đâu một ngày kia, có thể chị cũng sẽ trở thành nạn nhân của ông, mà chị không hay biết gì về quá khứ của ông Thương.

Sau khi được nghe những lời đằm thắm ngọt ngào lần đầu tiên của ông Thương tỏ tình yêu chị, làm tâm hồn chị cảm thấy rung động vì chưa bao giờ chị được nghe ai tỏ tình yêu chị như thế này, nên chỉ ít lâu sau chị tỏ ý chấp nhận lời cầu hôn của ông Thương ngay.

Thế rồi chỉ vài tuần lễ sau, chị viết đơn gửi về Nhà Dòng, trước tiên là chị xin Mẹ Bề Trên hãy tha thứ những lỗi lầm của chị đã vi phạm kỷ luật nghiêm minh của một nữ tu, đã thề khấn trọn đời hy sinh, trung thành dâng mình lên Thiên Chúa; sau nữa là để giãi bày tâm sự về những nguyên do tình cảm riêng tư của chị dành cho người yêu thương chị là ông Thương, để xin Mẹ Bề Trên hãy rộng lòng chấp thuận đơn xin bãi nhiệm thiên chức thiêng liêng nữ tu của chị, mà chị đã thề khấn trọn đời dâng mình cho Chúa, thì nay xin Mẹ Bề Trên cho phép chị ra khỏi Nhà Dòng, để sống cuộc đời thường dân lập gia đình với người chị thương yêu.

Hơn 2 tháng sau chị nhận được thư của Nhà Dòng thông báo đơn xin của chị đã được Mẹ Bề Trên cứu xét và chấp thuận vô điều kiện.

Thế rồi 6 tháng sau, một Thánh Lễ Hôn Phối được cử hành cho ông Thương và chị cựu nữ tu sĩ này trở thành đôi vợ chồng trước mặt Chúa. Thánh Lễ được cử hành rất đơn sơ và trang nghiêm, chỉ có Cô Dâu và Chú Rể nhưng không có Phù Dâu và Phù Rể, do một vị Linh Mục Tuyên Úy Hoa Kỳ của trường đại học chủ tế Lễ hôn phối, trong một Nhà Nguyện nhỏ của trường đại học danh tiếng, mà Cô Dâu đã ra trường tại đại học này cách đây nhiều năm.

Có lẽ một phần vì Chú Rể và Cô Dâu đã lớn tuổi, nhất là Cô Dâu lại là cựu nữ tu sĩ, nên rất ít quan khách được mời đến dự bữa tiệc mừng ngày thành hôn của 2 người, các vị quan khách hiện diện trong bữa tiệc cưới đều là bạn bè thân thiết nhất của Cô Dâu và Chú Rể. Quả thật y như rằng, chuyện gì đến rồi cũng sẽ phải đến, có cháy nhà mới lòi ra mặt chuột, hai vợ chồng ăn ở với nhau mới được 5 tháng, thì nay chị mới hiểu là tại sao ông Thương đã sống độc thân cho đến nay 60 tuổi mới lấy vợ, vì có vài người nói cho chị biết quá khứ của chồng chị, là ông Thương đã làm khổ nhiều cô đã trót dại lỡ yêu lầm ông, chỉ vì ông có phong cách bề ngoài là một người rất lịch thiệp, trí thức và nói năng nhã nhặn, hoạt bát, lôi cuốn bất cứ ai nghe ông nói chuyện, kể cả đàn ông lẫn đàn bà đều say mê giọng nói hấp dẫn của ông.

Cũng chính vì thế, chị đã âm thầm chấp nhận lời tỏ tình yêu của ông với chị, ngay buổi ban đầu khi ông ngỏ ý muốn cưới chị làm vợ. Nhưng nếu ai có dịp ở gần ông như đôi tình nhân lâu ngày hay sống gần ông như vợ chồng rồi, thì mới biết ông là người yêu tiền hơn yêu đàn bà con gái. Chính vì không biết ông thuộc loại người như thế, nên chị đã bị mắc vào cạm bẫy tình yêu với ông Thương ngay từ lúc lần đầu, khi ông bày tỏ tình yêu ngọt ngào với chị, làm chị say mê đắm đuối như đang được nghe tiếng chim sơn ca hót líu lo trên cành vào buổi bình minh. Bây giờ đã lỡ lấy ông làm chồng rồi, chị mới hiểu ý nghĩa sâu xa của câu nói: Cá cắn câu biết đâu mà gỡ, chim vào lồng biết thuở nào ra.

Tuy nhiên trong hoàn cảnh này của chị, để tự mình an ủi mình một chút, chị nhớ lại 4 câu thơ nói về tình yêu của nhà thơ Xuân Diệu, khi chị còn đang theo học ở bậc trung học, đó là: 

Yêu là chết ở trong lòng một ít, Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu? Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu: Người ta phụ, hoặc thờ ơ chẳng biết”. 

Chị không thể nào ngờ một con người trí thức, phong cách sang trọng lịch thiệp như ông Thương, chồng của chị lại có thể là một người đàn ông bần tiện, mủn xỉn, đếm lu nước mắm tính củ dưa hành, đến nỗi bao nhiêu tiền lương của chị lãnh về 2 tuần một lần, ông đều ép buộc chị phải bỏ vào trương mục chung (joint checking account) cùng với ông ở ngân hàng, nhưng cứ mỗi lần như thế, chỉ vài ngày sau, ông lại tự động rút ra một số tiền từ chương mục chung của 2 người, chuyển vào quỹ tiết kiệm (personal saving account) riêng của ông mà không có tên chị, đã thế ông chỉ cho phép chị đi chợ mua thức ăn cho 2 tuần lễ một lần, mỗi lần chỉ được quyền chi tiêu tối đa là $200 đồng, nếu tiêu quá số tiền đó một chút, về nhà thể nào cũng bị ông cằn nhằn, khiển trách chị là người hoang phí, không biết tiết kiệm tiền bạc để phòng khi đau ốm nặng, không có đủ tiền trả cho bác sĩ nhà thương và tiền nợ mua nhà, trong khi tổng số tiền chi tiêu đi chợ mua đồ nấu ăn hàng tháng cho 2 người, chồng chị và chị, chỉ tốn hết có một phần tư tổng số tiền lương hàng tháng chị kiếm được, mang về nhà nạp cho chồng, đó là chưa kể tiền lương của chồng kiếm được bao nhiêu, chị không hể biết đến từ khi chị về làm vợ ông.

Lắm lúc chị cảm thấy quá đau buồn tủi nhục, lấy phải người chồng mang tên Thương rất đáng yêu rất ý nghĩa, nhưng khổ một nỗi ông chỉ biết thương yêu tiền, chứ không biết thương yêu vợ và quả đúng như một vài người đã từng là nhân tình của ông Thương trước kia, kể lại cho chị nghe người yêu duy nhất của ông Thương là tiền, vợ chỉ là món đồ chơi cho ông thỏa mãn tình dục đòi hỏi của ông trong giây lát mà thôi hoặc cao đẹp hơn chút nữa vợ là kẻ hầu hạ ông hàng ngày hàng đêm miễn phí. Cuộc sống vợ chồng của chị với ông Thương kéo dài được hơn một năm, thì chị đành phải quyết định chia tay với ông vì chị chịu đựng hết nổi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thể kéo dài đến thế thôi, dù chị biết rằng đạo Công Giáo không cho phép vợ chồng được quyền ly dị nhau, hơn thế nữa chị còn là cựu nữ tu sĩ, đã một lần bội ước lời thề sẽ sống hy sinh trọn cuộc đời mình cho Chúa.

Nhưng thử hỏi đời sống làm vợ như thế này, thì chẳng khác gì chị đang sống trong lửa luyện tội, mà thà rằng nếu có phải sống trong lửa luyện tội ở đời sau vì tội ly dị chồng đời này, nhưng vẫn còn niềm hy vọng một thời gian sau ở lửa luyện tội, Chúa sẽ rộng lòng tha tội cho chị được hưởng hạnh phúc trên nước Thiên Đàng; đằng này biết đến bao giờ chồng chị mới có thể thay đổi tính tình biết yêu người hơn yêu tiền, vì bản tính quái dị này đã ăn sâu vào trong máu trong tim của ông mấy chục năm nay rồi, làm sao thay đổi được, nên chị không thể nào tiếp tục kiên nhẫn để chịu đựng nổi bản tính keo kiệt, hà tiện bủn xỉn của ông, chỉ biết yêu tiền hơn yêu người, như chị đã trình bày ở phần trên đây.

Rồi chuyện gì đến cũng phải đến, một hôm chị mạnh dạn nói cho chồng chị biết, là chị sẽ nhờ một luật sư nộp đơn xin ly dị ông và chị sẵn sàng chấp nhận nếu sau khi ly dị, chị có bị Sở Di Trú Hoa Kỳ trục xuất chị trả về nguyên quán, thì chị cũng đành lòng chấp nhận tuân theo luật định. Ông biết chị nói như thế không phải là chị muốn đe dọa ông đâu, mà chị sẽ làm thật, nên ông vội cất giấu thẻ Thường Trú tạm 2 năm điều kiện ở lại Hoa Kỳ của chị, nhờ vào tư cách pháp nhân chị là vợ ông (Conditional Permanent Resident Card of 2 years as his legal spouse) nên Sở Di Trú Hoa Kỳ cấp cho chị, sau khi đơn bảo trợ của chồng chị đã được đệ nộp cho Sở Di Trú Hoa Kỳ cứu xét, để xin chuyển diện du lịch của chị trước kia, trở thành diện hôn thê chính thức, để được ở lại Hoa Kỳ.

Nhưng giờ đây chưa đủ 2 năm sống chung với nhau là vợ chồng, mà chị đã đòi ly dị ông, nếu thế ông sẽ tố cáo với sở di trú là chị giả vờ lấy ông làm chồng (fraud marriage), để được ở lại Hoa Kỳ hợp pháp và ông sẽ yêu cầu Sở Di Trú Hoa Kỳ trục xuất chị về VN, nếu chị vẫn còn muốn ly dị ông. Vì cái cảnh cơm no bò cưỡi của ông, lại còn được vợ tài trợ cho ông thêm tiền hàng tháng, ai mà dại dột điên khùng chấp nhận vợ ly dị. 

Nhưng thực ra chồng chị đã lầm to, ông quên rằng trước khi chị bị ông dụ dỗ vào cạm bẫy tình yêu, nghe lời đường mật của ông để bằng lòng lấy ông làm chồng, thì chị đang là một nữ tu sĩ tài giỏi của Nhà Dòng ở VN, mỗi năm chị được Mẹ Bề Trên Nhà Dòng sai đi công tác đến Hoa Kỳ ít nhất mỗi năm 2 lần, để gây quỹ lạc quyên tài chánh cho Nhà Dòng nên chị đâu có cần phải ở lại Hoa Kỳ làm gì? Nhưng nếu chị muốn ở lại Hoa Kỳ, chị vẫn có thể nạp đơn xin giấy chiếu khán (entry visa) vào Hoa Kỳ hợp pháp theo diện làm việc cho cơ quan tôn giáo (religious worker category) hay xin đi theo diện truyền giáo (religious missionary category) không có gì khó khăn hết.

Hơn thế nữa, chồng chị đã quên đi mất một điều, vợ ông là cựu sinh viên du học xuất sắc tại một trường đại học danh tiếng tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp văn bằng Cao Học (MA), vợ ông có thể nói tiếng Mỹ không lưu loát bằng ông, vì ông là cựu sinh viên du học tại đại học Hoa Kỳ đã 10 năm trước Tháng Tư Đen 1975, nhưng so sánh về bằng cấp, ông chỉ có bằng Cử nhân còn kém vợ một bậc, nên lời đe dọa này của ông, vợ ông coi như ông đem ma dọa con nít, trong khi vợ ông đâu có phải là con nít mà sợ ma.

Điều này lại càng làm cho chị bực tức thêm, đã thế chị nhất quyết đi gặp luật sư để lấy lại thẻ thường trú tạm, mà chồng chị đã cất giấu đi và đồng thời chị sẽ nhờ luật sư xúc tiến việc nộp đơn xin ly dị sớm chừng nào tốt chừng ấy. Sau khi chị đi gặp vị luật sư để trình bày tất cả chi tiết về những sự việc bất đồng giữa vợ chồng chị hơn một năm nay và chỉ còn 3 tháng nữa là đến ngày chị được Sở Di Trú Hoa Kỳ mời đi phỏng vấn, để cứu xét hồ sơ xin đổi lại thẻ thường trú tạm 2 năm của chị thành thẻ thường trú 10 năm thực thụ, thì nay chồng chị biết chắc là chị sẽ đi nhờ luật sư nộp đơn xin ly dị ông, nên ông đã cất giấu thẻ của thường trú tạm của chị. Nghe chị trình bày diễn tiến sự việc của vợ chồng chị xong, vị luật sư cho biết nếu chị đồng ý, chi phí lấy lại thẻ thường trú tạm cho chị và đến ngày chị phải đi trình diện sở di trú để cứu xét xem chị có thể đủ điều kiện đổi lấy thẻ thường trú thực thụ 10 năm hay không, luật sư sẽ là nhân chứng đi cùng chị đến sở di trú, để giúp chị trả lời những câu hỏi nào của vị Giám Khảo Di Trú (Immigration Examiner) chất vấn chị, mà chị không hiểu rõ câu hỏi, luật sư sẽ giúp chị trả lời.

Luật sư cho chị biết tổng số tiền chi phí di trú pháp lý cho vấn đề của chị sẽ là $6000 đồng, không bao gồm tiền chi phí pháp lý cho vấn đề ly dị. Chị đồng ý và nói cho luật sư biết chị chưa thể nào nạp số tiền này cho luật sư ngay bây giờ được, vì từ khi chị đi làm đến nay, tiền lương của chị lãnh 2 tuần một lần đem về, đều phải bỏ vào chương mục ngân hàng chung với chồng, nhưng tiền trong chương mục chung bao giờ cũng chỉ còn lại khoảng $600 đồng, đủ tiền để chị đi chợ mua thức ăn cho 2 tuần lễ và tiền đổ xăng cho xe chị 2 tuần một lần. Vì sau đó ít ngày, chồng chị chuyển tiền lương của ông và của chị từ chương mục chung với nhau vào chương mục riêng của ông, như đã trình bày phần trên đây.

Vậy để có đủ số tiền trả chi phí cho luật sư lo giấy tờ di trú cho chị, chị đã ngỏ lời vay mượn tiền của một số ông bà chị em trong xứ đạo quen biết chị từ bấy lâu nay, nhưng người nào cũng từ chối khéo léo không muốn cho chị mượn tiền và sau đó chị được nghe vài người nói lại cho chị biết, là sở dĩ họ không muốn cho chị mượn để trả tiền luật sư, không phải vì họ lo sợ chị không đủ tiền trả nợ cho họ sau này, nhưng vì họ trách móc chị, cho rằng chị đã là một nữ tu sĩ, khấn trong Dòng dâng mình cho Chúa chọn đời, đã ăn cơm Nhà Chúa mấy chục năm miễn phí, nay chỉ vì vấn đề tình dục đòi hỏi, chị đã bội ước lời hứa trung thành suốt đời với Chúa để đi lấy chồng, Chúa phạt cho đáng kiếp, ai mà thương được những kẻ tội lỗi như thế.

Cuối cùng chị đành phải vào gặp Cha Chánh Xứ trình bày sự việc xảy ra giữa vợ chồng chị, với hy vọng Ngài là kẻ chân tu, sẽ hiểu rõ được thế nào là tình yêu trong trắng lúc ban đầu và tình dục chỉ là phương tiện đến sau tình yêu, để hỗ trợ làm tăng thêm tình yêu giữa vợ chồng với nhau mỗi ngày mỗi trở nên khắng khít hơn, bền chặt hơn; chứ đâu phải tình yêu nào cùng là nguồn khởi thủy của tình dục như nhiều người nghĩ đâu.

Khi Cha Chánh Xứ nghe xong sự trình bày của chị, Ngài nói rất thông cảm hoàn cảnh của chị như con nai vàng ngơ ngác, bị rơi vào cạm bẫy tình yêu và số tiền chị muốn mượn Ngài, thực ra không có gì là to tát, vượt quá khả năng tài chánh của Ngài, nhưng chị nên hiểu rằng trong tư thế là một Chánh Xứ của một Xứ Đạo VN, Ngài không thể cho chị mượn tiền được, vì tai vách mạch rừng, nếu có những ai không ưa thích Ngài, mà biết được việc Ngài cho chị mượn tiền, thì chắc chắn họ sẽ dựng chuyện không tốt để bôi nhọ uy tín Ngài, mà việc này đã xảy ra vài lần trong xứ đạo VN cách đây mấy năm.

Tuy nhiên vấn đề của chị, tôi vẫn có thể giúp chị một cách gián tiếp để giới thiệu cho chị một Phó Tế Vĩnh Viễn (Permanent Deacon) đã có trên 32 năm kinh nghiệm về Di Trú và Nhập Tịch Hoa Kỳ (US Immigration & Naturalization) cho Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ (US District Court), sẽ tư vấn hoàn toàn miễn phí cho chị. Ngay sau đó, chị liên lạc với chúng tôi, nhờ chúng tôi tư vấn cho chị trong vấn đề chị gặp rắc rối với chồng của chị về vấn đề di trú Hoa Kỳ. Sau khi chúng tôi nghe chị trình bày câu chuyện xảy ra cho chị, đúng như các chi tiết đã được kể lại theo thứ tự từng đoạn trên đây trong bài viết này, chúng tôi giải thích cho chị hiểu rõ vài điều luật tổng quát về bộ luật hình sự Hoa Kỳ, có liên quan đến trường hợp của chị như sau:

* Theo luật hình sự Hoa Kỳ của liên bang hay của tiểu bang, đều cấm bất cứ ai không được ép buộc (Coercion) người này phải bỏ tiền của mình vào chung với chương mục ngân hàng của người khác (Compelling someone to deposit her or his money into someone’s joint account), hăm dọa đòi trục xuất người ta về nguyên quán của họ (Threaten anyone to be deported to her or his original country), cất giấu bất cứ giấy tờ hợp pháp như thẻ thường trú (Hiding any legal papers as conditional permanent resident card) của người khác làm cho người ta bị mất tinh thần, lo sợ đều có thể bị truy tố ra tòa theo tội hình sự (Criminal), hoặc lạm dụng sức lao động của người khác làm kẻ hầu hạ mình như đầy tớ trong nhà (Labor abuse to someone for a servant at home).

* Theo những điều khoản vi phạm được liệt kê trên đây, có liên hệ đến tình trạng của chị như chị đã trình bày cho chúng tôi nghe, chúng tôi khuyên chị hãy lấy hẹn trên online càng sớm càng tốt với Sở Di Trú Hoa Kỳ, để xin gặp vị Giám Khảo Di Trú Hoa Kỳ (US Immigration Examiner) và trình bày minh bạch tất cả mọi sự việc xảy ra cho họ nghe, chúng tôi tin chắc sự việc của chị sẽ được vị Giám Khảo giải quyết tốt đẹp mà chị không cần phải nhờ đến luật sư, vì chị có thừa khả năng Anh Ngữ để nói chuyện trực tiếp với vị giám khảo.

* Rất nhiều người có thẻ thường trú được phép cư trú hợp pháp tạm thời 2 năm tại Hoa Kỳ và khi thời gian tạm trú đủ 2 năm, thì có quyền nộp đơn với Sở Di Trú Hoa Kỳ, để xin cứu xét đổi thẻ tạm trú 2 năm thành thẻ thường trú thực thụ 10 năm. Nhưng nếu vì lý do gì bất hòa giữa vợ chồng, nộp đơn xin ly dị chồng hay vợ trước thời gian 2 năm tạm trú, thì người vợ hay người chồng đó tin rằng sẽ bị trục xuất khỏi Hoa Kỳ để bị trả về nguyên quán. Điều này hoàn toàn không đúng trên thực tế, vì chiếu theo các điều khoản đã ghi rõ trong bản nội quy pháp luật của tiểu bang Oklahoma nói riêng (under a Human Trafficking Procecution, Oklahoma Statutes Citationized, Title 21. Crimes and Punishments, Section 748) và các điều khoản nội qui tương tự như vậy đối với Luật Liên Bang (Federal Law) hay các tiểu bang khác cùng thế (Human Trafficking, also kown as trafficking in persons “TIP”, is a modern-day form of slavery. It is a crime under federal and international law; it is also a crime in every state in the United States.) Vì nếu một trong 2 người phối ngẫu đó là nạn nhân của nô lệ tình dục (victim of sexual slave), nạn nhân của bạo hành trong gia đình (victim of family violence), nạn nhân của nô lệ lao động (victim of labor slavery) v.v.., như đã đề cập trên đây, đều được pháp luật Hoa Kỳ bảo vệ tuyệt đối quyền sống bình đẳng của con người trước pháp luật, không thể nào bị trục xuất trả về nguyên quán, nếu nạn nhân có bằng chứng hiển nhiên trước phiên tòa xử án.

Đúng như chúng tôi dự đoán, 2 tuần lễ sau, chị báo cho chúng tôi biết, chị đã đến Sở Di Trú Hoa Kỳ để gặp vị Giám Khảo Di Trú, như chúng tôi đã tư vấn chị. Trong buổi gặp gỡ vị Giám Khảo, chị đã trình bày minh bạch mọi chi tiết sự việc xảy ra cho ông ta nghe. Ông cho chị biết mặc dầu tất cả những điều chị nói cho ông nghe, cá nhân ông hoàn toàn tin vào những gì chị nói là đúng sự thật, vì chị là cựu nữ tu sĩ, nhưng ông vẫn phải thi hành theo đúng thủ tục hành chánh pháp lý, là ông phải chuyển những lời khai của chị hôm nay cho Ban Điều Tra (Investigation Section), để nơi đây họ sẽ điều tra lại xem những gì chị nói với ông có đúng sự thật như thế không? Nếu đúng sự thật như thế, tới ngày chị được mời đến phỏng vấn, để đổi lấy thẻ thường trú thực thụ 10 năm, thì lúc đó cho dù chị đã ly dị chồng hay chưa ly dị và chồng chị có mặt hay không có mặt trong buổi phỏng vấn chị, thì sẽ không có điều gì trở ngại và chị vẫn được cứu xét để được Sở Di Trú chấp thuận cấp thẻ thường trú thực thụ 10 năm cho chị.

Vì những chứng cớ hiển nhiên sau khi Sở Di Trú đã điều tra, cho thấy chồng chị đã vi phạm những điều luật hình sự đối với vợ mình, như chúng tôi đã nêu trên đây cho chị biết trước, nên chị mới can đảm một mình dám đến trình diện Sở Di Trú, mà không cần phải mướn luật sư bênh vực cho chị. Hơn thế nữa, trong khi Sở Di Trú gửi thư yêu cầu chồng chị phải gửi trả lại thẻ di trú tạm thời 2 năm vẫn còn thời hạn của chị về Sở Di Trú, mà chồng chị đã cất giấu và trong khi chị chờ đợi nhận lại thẻ này, thì chị được cấp một thẻ thường trú thay thế tạm, chứng nhận chị là một cư dân hợp pháp tạm thời trong 3 tháng (temporarily legal alien for 3 months), thay thế thẻ cũ chưa hết hạn.

Ba tháng sau, chị đến báo tin cho chúng tôi biết, sau khi kết quả cuộc điều tra của Sở Di Trú xác nhận những điều chị khai với vị giám khảo đều đúng sự thật và tới ngày hết hạn 2 năm thường trú tạm của chị, chị nhận được giấy mời chị đến Sở Di Trú để tái phỏng vấn và để hoàn tất thủ tục đổi lấy thẻ thường trú thực thụ 10 năm cho chị; dù trong buổi phỏng vấn này, không có sự hiện diện của chồng chị vì chị đã ly dị chồng rồi. Ít lâu sau chị nhận được thẻ thường trú 10 năm do Sở Di Trú Hoa Kỳ gửi tới. Như đã đề cập ở phần đầu, chị nói đây là mối tình đầu mà cũng là mối tình cuối của cuộc đời chị và chị biết trước thế nào Nhà Dòng ở Việt Nam trước kia chị là nữ tu mấy chụ năm trong Nhà Dòng này, sẽ từ chối, không chấp nhận cho phép chị được quay trở về đời sống nữ tu trong Nhà Dòng như trước kia nữa, quả đúng như vậy.

Nhưng chị rất vui mừng là ý nguyện của chị muốn được trở về lại đời sống tu hành, để chị dành những ngày còn lại của cuộc đời chị trên thế gian này, được sống âm thầm cầu nguyện, sám hối tội bội ước lời thề trung thành dâng mình đời đời cho Chúa của chị khi chị còn là nữ tu khấn trọn đời trong Nhà Dòng, thì nay chính thức chị là thường trú nhân thực thụ tại Hoa Kỳ, đồng thời chị đã nạp đơn xin tu vào một Nhà Dòng Nữ Tu Hoa kỳ tại đây và đơn xin nhập dòng của chị đã được chấp nhận.

Trước khi chị lên đường nhập dòng tu tại Hoa Kỳ, chị muốn được ngỏ lời hết lòng cám ơn chúng tôi, về những lời tư vấn của chúng tôi, đã giúp chị đạt được kết quả tốt đẹp mỹ mãn mà không phải tốn tiền thuê luật sư, ngoài sự mong ước của chị và chị hứa sẽ cầu nguyện hàng ngày trong dòng tu, xin Thiên Chúa ban cho chúng tôi dồi dào sức khỏe, để chúng tôi tiếp tục phục vụ tha nhân theo Thánh Ý Ngài muốn.

Để tạm kết thúc câu chuyện Cạm Bẫy Tình Yêu hay còn gọi là Tình Đầu Dang Dở và Cũng Là Tình Cuối của chị cựu nữ tu sĩ này, chúng tôi nhận thấy cuộc đời của chị cựu nữ tu này, đúng như ý nghĩa của câu nói ngoài đời là “Hồng Nhan Bạc Phận”. Tuy nhiên cũng có câu nói khác ngoài đời, mang một ý nghĩa thiêng liêng cao cả hơn, thích hợp đúng với hoàn cảnh thực tế hiện tại của chị nữ tu này mong muốn, đó là “Tu Là Cõi Phúc, Tình Là Dây Oan” mà chị lại nhận được ân sủng đặc biệt của Chúa ban xuống cho chị, Ngài soi đường dẫn lối cho chị quay trở về con đường tu hành tích đức, để chị sẽ đi cho đến hết đoạn đường tu hành cuối cùng trong cuộc đời của chị trên trần gian này.

PT. Nguyễn Mạnh San


No comments:

Blog Archive