Monday, June 22, 2020



Bùi Đức Tính
  
Bên ngoài, trời chưa sáng hẳn. Nhịp sống của một ngày mới, đã khởi động nãy giờ, giờ có phần nhộn nhịp hơn. Tiếng xe đạp cót két chạy qua, tiếng xe gắn máy kinh động yên tỉnh của ban mai, tiếng dép lẹp xẹp, hòa với gánh hàng kẽo kẹt trên vai. Đêm sau cùng, mà bọn tôi được nằm ngủ như là một thường dân, rồi cũng đã qua đi, qua đi chóng vánh. Chỉ thêm vài giờ, chúng tôi sẽ tập tành bước vào đời lính. Tôi ráng nằm yên cho bạn bè ngủ. Tưởng chỉ có mình không ngủ thêm được, nghe tiếng động kế bên, tôi ngó qua, thấy Vẹn đã thức, đang ngồi bó gối. Lăn qua, tôi vói tay lấy gói thuốc hút và cái hộp quẹt bên gối nằm, định rủ Vẹn đi ra ngoài, thì thấy hai thằng Phát bên cạnh tôi, cũng lục đục ngồi dậy theo Vẹn. Chẳng ai bảo, bọn tôi ngó sang Cang đang còn cuộn mền nằm, ái ngại, ráng giữ yên lặng cho bạn mình ngủ. Tạm trú nơi nhà trọ của Cang, không muốn làm phiền bạn mình nhiều; bốn đứa tôi nhón chân, nối nhau rón rén đi nhẹ ra cửa. Không dè, Cang cũng nghe. Cang choàng tỉnh, lồm cồm ngồi lẹ dậy, lo lắng, hỏi nhanh:
- Đi à?

Nghe tiếng Cang, chúng tôi dừng lại, trấn an bạn mình:
- Chưa đâu, … còn sớm mà!
- Ngủ tiếp đi Cang. Hồi hôm, mày thức học trễ quá đó.
- Vậy,… tao nằm thêm một chút …

Cang nói, rồi nằm vùi xuống, tay kéo mền lên tận cổ, dặn dò:
- Chừng nào đi… nhớ gọi tao dậy…
- Ừ, đừng lo… gọi mày mà!

Phát ân cần hứa hẹn thêm cho Cang yên tâm:
- Chừng nào mày đi học, tụi tao mới rời nhà luôn thể.

Yên bình còn đọng lại trong buổi sáng sớm, mong manh, chực tan biến; dễ làm cho người ta ngần ngại khuấy động. Ánh đèn loáng thoáng từ các nhà chung quanh, có người cũng thức dậy rồi. Khu bình dân, trong hẻm, nhiều người phải dậy sớm lo miếng ăn, cho mình, cho gia đình, để rồi đi làm. Chúng tôi ngồi ngoài hàng ba, hút thuốc, rù rì nói chuyện; tránh làm phiền trong nhà và hàng xóm. Trái đất trông như di chuyển nhanh hơn vào buổi sáng. Hôm nay, trời có vẻ sáng nhanh hơn, hay thời gian bay qua nhanh hơn. Mới đó, trời đã thấy sáng hẳn ra. Từ bên trong ra đến ngoài đầu hẻm, chốc chốc lại nghe tiếng xe, tiếng người rời nhà.

Nghe có tiếng động bên trong nhà. Bọn tôi ngó nhau, đoán là Cang đã dậy. Ồn ào thế này, có muốn nằm nướng thêm, cũng khó mà yên giấc. Thấy Cang mở đèn trong nhà, Vẹn ngồi gần, vói tay kéo hé cửa, ló mặt vào nhìn xem, rồi lên tiếng thăm hỏi:
- Đi học sớm hả?

Ngủ thêm một lúc, bạn mình có vẻ tỉnh táo hơn. Tiếng Cang vui vẻ:
- Đi!... tụi mình ra quán chú Hy kiếm cà phê!     

Nghe vậy, chúng tôi vui lắm. Còn gì bằng, có thời gian chuyện trò để chia tay với Cang, trước khi bạn mình đi học và chúng tôi đi trình diện nhập ngũ. Đi lính mà! Nghe kinh nghiệm quân trường từ hai cậu tôi, bốn đứa tôi chỉ mang theo một bộ quần áo, nên không có gì phải thu dọn lâu lắc. Bửa nay, gởi bộ đồ ấy ở nhà trọ của Cang, hành trang lên đường của chúng tôi càng thêm nhẹ nhàng, chỉ còn áo thung, quần ngắn, vài vật dụng vệ sinh cá nhân. Tôi ngần ngừ, rồi cũng bỏ quyển “Mơ Thành Người Quang Trung” của Duyên Anh vào túi. Quyển sách chỉ có mười một chương ngắn; chuyện của tuổi thơ, với những Chương còm, Hưng mập, Dzũng Ðakao, Quyên Tân Định, Bồn lừa, Ngân quăn,… Đọc nhiều lần rồi, tôi mang theo hờ, để có cái gì đó mà đọc cho khuây khỏa.

Đeo cái túi nhỏ lên vai, bốn đứa tôi theo Cang đi ra quán chú Hy. Quán cóc, ngoài đầu hẻm. Giống như các quán nhỏ trong xóm, trong khu phố; chủ, khách, bàn, ghế… đều bình dân, giản dị. Cái bếp chiếm mất một khoảng, chỉ còn chỗ cho năm cái bàn để khách ngồi. Thấy cách chào hỏi nhau, thì biết ngay, hầu hết là khách quen. Khách trong đây còn quen mặt nhau. Người ta kéo ghế ngồi chung bàn, như là có hẹn nhau, chuyện trò thân mật, rộn rã.

Cà phê Sài Gòn, cũng như cà phê tại các tỉnh thành ở miền Nam mình, có nhiều loại, nhiều hạng. Có tiệm quán thượng lưu, với cà phê phin thong thả rơi từng giọt nhàn hạ. Quán cà phê có nhạc, thường là nơi quyến rũ người thêu dệt mộng mơ, nơi ôm ấp lãng mạn, với những mối tình đơm hoa kết trái. Nhưng rồi, lúc thực không như mơ, người ta đến đây chỉ để dò tìm lối đi trong kỷ niệm, để ngẩn ngơ, tiếc nuối… và rồi, lại dệt mộng, ước mơ. Có khi, anh đã chọn ra đi, rời con đường học trò, với những ngày Thủ Đô tưng bừng phố xá, mang nặng hành trang, chẳng mong ngày về. Và người, một thời với con đường học trò, trở lại quán, không phải để tìm cà phê; lắm lúc, chỉ muốn tìm về Chủ Nhật uyên ương, để uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.

Quán chú Hy, giống đa số quán bình dân, chuyên bán cà phê pha bằng vợt. Bếp pha cà phê của chú Hy cũng giản dị, với ba lò chụm bằng củi, vài cái siêu đất nung, ấm nhôm, bình trà… Cang nói, quán chú Hy mở cửa sớm. Từ năm giờ sáng, bếp đã đỏ lửa để đun nước sôi pha cà phê phục vụ khách. Để giữ hương vị, vợt pha cà phê không được giặt bằng bột giặt hay thuốc tẩy. Mớ vợt sạch, sẵn sàng để dùng, máng bên trên bếp, đều thâm màu cà phê. Cà phê mỗi quán có hương vị khác nhau. Cái thơm ngon khác nhau là ở cách pha, cách chọn lọc bột cà phê; theo khám phá, theo kinh nghiệm của từng quán. Người pha dùng nước sôi để trụng sạch vợt, rồi mới cho bột cà phê xay nhuyễn vào. Sau đó, nhúng vợt có cà phê vào siêu nước đang sôi, lấy muỗng khuấy đều vài lần, rồi đậy nắp siêu lại, nấu thêm khoảng năm đến mười phút cho cà phê thấm dần; để tạo nên những bình cà phê, với hương vị đặc biệt của quán mình. Khi cà phê trong siêu đã được nấu cho hòa tan đến độ ngon như ý xong, chú Hy sang một phần vào cái ấm nhôm, để cho nguội dần, dùng làm các món cà phê có đá. Phần cà phê còn lại, chú giữ trong siêu đất, đặt sang cái bếp than có lửa nhỏ, để giữ nóng, dùng cho món cà phê đen và cà phê sữa nóng.

Từ lần đầu theo Cang bước vào quán chú Hy, thấy mấy cái siêu đất trên bếp, là chúng tôi có cảm tình với cà phê của chú. Nhiều quán, chỉ dùng ấm pha bằng nhôm. Pha bằng siêu đất như chú Hy, mới có được chất cà phê thơm ngon độc đáo. Đây là loại siêu chuyên dùng để nấu thuốc bắc, làm bằng đất nung, có vòi và cán cầm chếch xéo lên cùng một hướng. Loại siêu đất này giữ độ nóng và nóng đều, giúp cho bột cà phê trong vợt hòa tan, đậm đà cả hương lẫn vị. Cà phê phin có phong cách sang trọng riêng, dành cho khách có tiền và thừa thời gian. Cà phê vợt thì bình dân hơn, pha sẵn, giá cũng bình dân, dành cho người lao động có ít tiền và ít thời giờ rỗi rãnh. Chỗ pha cà phê vợt thường trông không đẹp mắt cho lắm; mấy cái vợt thì thâm màu cà phê, siêu đất thì màu men vàng bên ngoài bị ám khói đen đủi. Thế nhưng, chính nhờ cái vợt, cái siêu, cách pha chế công phu, đúng điệu và cầu kỳ ấy, đã làm người thưởng thức ly cà phê vợt, sẽ cảm nhận được hương vị thơm ngon đặc biệt, mà các kiểu pha khác không có được.

Buổi sáng qua nhanh, mang theo hương vị cà phê và lời tạ từ.

Cang phải đi học. Bốn đứa tôi đến Quân Vụ Thị Trấn làm thủ tục nhập ngũ. Tuổi học trò của chúng tôi, từ đây bắt đầu rẽ ngoặc sang lối vào quân trường. Từ cổng vào, Cổng Số Một, trong phút chốc tuổi trẻ học được bài học vỡ lòng đầy ý nghĩa; đó là biết đáp lời: “Sẵn Sàng!”. Đàn em sẵn sàng theo đàn anh, để trưởng thành. Thành người lính và nhận lãnh “Trách Nhiệm”. 
. . . 
Không ai dừng vòng quay của thời gian được!

Rồi cũng đến ngày rời quân trường. Mấy tuần cuối khóa thật bận rộn. Đến ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi rủ nhau đi ra Khu Tiếp Tân. Không có ai đến thăm viếng cả. Chúng tôi chỉ muốn lang thang, nhìn ngắm khung cảnh thân ái, gia đình đoàn tụ, dù ngắn ngủi, thêm một lần sau cùng. Mai này, chắc là khó có dịp, hay sẽ không bao giờ còn trở về nơi đây.

Vào tháng ngày cuối khóa huấn luyện, các khóa đàn em đều để ý và chào kính với tình cảm, khi gặp những đàn anh sắp rời quân trường. Đồng thời, chúng tôi cũng dễ dãi; chuyện hướng dẫn hay phạt vạ đàn em, đã có các khóa đàn anh khác lo. Nhất là ngày Chủ Nhật, trên lối vào Khu Tiếp Tân, lòng mình như trãi rộng ra, bốn đứa tôi không lưu tâm đến chào kính của các khóa đàn em cho lắm. Thấy chào thì đứa đi bên ngoài, chào đáp lễ theo nghi thức, và bọn tôi bình thản bước đi.
- Huynh trưởng!

Chợt nghe có tiếng gọi sau lưng. Thường thì, chỉ có đàn anh gọi giật ngược để chỉnh đàn em. Bốn đứa tôi ngạc nhiên, dừng chân và quay lại. Anh sinh viên khóa đàn em, còn đứng nghiêm nhìn chúng tôi, ân cần:
- Huynh trưởng!... Ra đơn vị nhiều may mắn!

Tình quá!

Chúng tôi bước sang bên kia đường, bắt tay cám ơn anh.

Buổi sáng, giờ thăm viếng còn dài. Chỉ có những khóa sinh “mồ côi”, không người thân yêu thăm viếng, mới trở về doanh trại sớm. Chúng tôi bước nép vào bên lề đường, cho trống lối di chuyển chung, Vẹn thân mật thăm hỏi:
- Anh đã xong tiếp tân rồi sao?
- Thưa Huynh trưởng, tôi không có người thăm… Đi xem chơi, vậy thôi!
- Anh tính về trại à?
- Thưa chưa! Tôi tính đi xuống Khu Gia Binh… kiếm quán ngồi nghe nhạc.

Không có ai để hẹn hò, hay hẹn mà không đến, cũng là chuyện thường tình, trong quân trường. Tình đời trong thời chiến mà. Chẳng có gì đáng thắc mắc cho lắm. Nghe vậy, tôi ngó các bạn mình hỏi ý:
- Mình cùng xuống Khu Gia Binh chứ?

Còn nhiều thời gian, xuống Khu Gia Binh kiếm cà phê uống trước, rồi quay lại thăm Khu Tiếp Tân sau, cũng được. Chúng tôi đồng ý, cùng đi kiếm quán, để ngồi chuyện trò với nhau. Phát đi ngoài hàng làm trưởng toán. Toán năm người, đàn anh cùng đàn em, thêm một lần bên nhau. Trong đây, còn đó Vũ Đình Trường ngợp nắng, Đại Giảng Đường, doanh trại, … Và rồi, tất cả, sẽ chỉ còn trong kỷ niệm. Đi qua Vũ Đình Trường, kế tiếp bên trái là Câu Lạc Bộ Sĩ Quan. Qua bên kia đường là Khu Gia Binh, nơi tập trung các thứ hàng quán. Quanh quân trường có nhiều tiệm quán lắm. Quán ăn, quán cà phê, tiệm bán các thứ vật dụng mà sinh viên cần, tiệm may sửa quân phục….

Bên khu Thiết Giáp cũng có nhiều tiệm quán, và cũng có vài quán là nơi để tương tư, thầm nhớ. Nơi mà, cho dù có tốn tiền cà phê, bỏ phí cả tháng trời dài, thường chỉ được ôm ấp nụ cười và mấy tiếng “em chả…!” mà thôi. Đối diện Nhà Bàn, khu nhà ăn cho sinh viên thụ huấn, có một quán cà phê, với người trong quán cũng là người trong mộng, đã ru hồn nhiều chàng tuổi trẻ còn thích vướng víu mộng mơ. Khu Gia Binh cũng thế, nơi nào cũng thấy những cây si mới trồng. Có cây, lá còn tươi rói. Có cây, lá chưa kịp tươi đã héo úa. Sau cơm chiều, khóa sinh được tự do cho đến giờ đi ngủ; coi vậy mà ngắn lắm. Lại thêm, đèn màu quyến rũ, nhạc bập bùng, hoa khoe sắc thắm, hồn bồng bềnh phiêu lạc. Không phải chỉ có đàn em, đàn anh cũng bị lạc lối, quên đi thời gian, chạy về đến doanh trại, đã trể giờ tập họp điểm danh tối, của Đại đội là thường. Thế nhưng, hoa nơi đây, không phải chỉ có hồng, mà đào, lài, cúc, huệ, sen,… ngay cả Vân hay Mây, Lệ hay… nước mắt; ít nhiều đều có gai hết. Gai nào cũng làm trầy xước được hết. Chỉ có khác nhau cái tầm mức đau rát hay độc hại mà thôi. Thời chiến, khó lường được, đâu là tình yêu, đâu là cạm bẫy. Vào tiệm quán, mình chỉ nên ngó qua, để biết: đời còn có sắc màu, có hương thơm, có lụa là thưa mỏng đầy quyến rũ; chớ không phải chỉ có bộ quân phục, chỉ nồng nàn mồ hôi, hay chỉ có những thân thể cháy nắng thành đen sạm.

Chừng như, cái chất lính cũng hòa nhập vào tiệm quán nơi đây. Quán bán cho tuổi trẻ đang tập tành làm lính, đều có phương pháp, nhuần nhuyễn, nhanh lẹ. Bước vào cửa, gọi thức uống, trả tiền, nghe tiếng nói và ngắm nụ cười chào đón, ngồi xuống bàn, đốt xong điếu thuốc, là thấy có người đẹp mang ly cà phê tới bàn. Từ dàn máy Akai đồ sộ trong quán, cuốn băng nhựa quay vòng chầm chậm, đưa tiếng ai đó đang hát bài “Sao Em Không Đến”, chan hòa trong không gian mù mờ khói thuốc. 

Bài hát kể chuyện hẹn hò của anh chàng khóa sinh; chuyện đi phép chiều thứ Bảy, nhưng nàng không lại, để chàng đứng ngẩn ngơ trong quân trường, “đếm từng chiếc lá thu bay...” mà ước mong “tôi còn có em”. Chuyện mất, chuyện còn, là chuyện bình thường trong đời lính; lính trận càng thấm thía chuyện đời mình hơn. Sáng nay, đã sang ngày Chủ Nhật rồi, nhưng chuyện hẹn hò từ chiều thứ Bảy của ai đó, sao vẫn nghe vương vấn trong lòng.

“Đời tôi, từ ngày khoác áo chiến binh lên đường,
thấy rằng, lòng mình đã bớt vấn vương.
Chiều nay, lòng chợt thấy nhớ thương em,
Thương về mái tóc êm đềm, buông dài ấp kín hồn em...

Tôi mong em đến tuần sau thứ Bảy,
Cho tôi không còn tìm áo ai bay,
Cho tôi không còn đếm bước âm thầm,
những chiều em không đến thăm,
Vì tôi biết: tôi còn có em…!”

Gần bên Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, trước khi đi vào Khu Gia Binh cũng có cây soan.

Chắc đây là cây soan già, trong bài “Sao Em Không Đến” của nhạc sĩ Hoàng Nguyên. Tác giả cũng thụ huấn cùng quân trường, năm 1965.

Thời còn trong quân trường, chiều thứ Bảy được đi phép; cho dù không ngóng tìm hình bóng người thương, lời nhạc nghe như viết riêng cho từng khóa sinh, cho chính mình.

Tôi mong em đến tuần sau thứ Bảy!”

Có những ước mong nghe như tầm thường, nhưng hãy còn quyến luyến, đong đầy kỷ niệm, như ngày nào tuổi trẻ chợt hiểu được và biết thấm thía với hai chữ: Anh đi!

Cho dù đã gần năm mươi năm sau, “Sao Em Không Đến”, lời hát vẫn mênh mang đưa người lính ngày xưa, trở về với một thời tuổi trẻ, với thao trường còn vang tiếng gọi. Nhất là với tiếng hát của các bạn mình. Bạn mình không phải là ca sĩ chuyên nghiệp. Lính hát, lính nghe. Nghe chính bạn mình đàn hát, có cái gì đó khác hẳn, đầy ấp thân tình.

Quân trường.
Bạn bè tôi.

… nghe lòng thương thương nhớ nhớ.
Một thời để nhớ và không thể quên! 

19-06-2020
Bùi Đức Tính

No comments:

Post a Comment